Trả lời:
Theo Công văn số 3638/BTNMT-PC ngày 01/9/2015 Bộ Tài nguyên và Môi tường trả lời về vấn đề này như sau:
Trong những năm qua, bên cạnh những kết quả đạt được trong tăng trưởng kinh tế, giải quyết an sinh xã hội thì bảo vệ môi trường luôn là một trong những vấn đề trọng tâm của Đảng và Chính phủ. Bộ Tài nguyên và Môi trường với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về môi trường đã và đang hoàn thiện, đồng bộ hóa các biện pháp bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường các khu công nghiệp, đô thị, nông thôn cũng như khu dân cư tập trung nói riêng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ngày càng hoàn thiện góp phần tích cực cùng với các giải pháp kinh tế kỹ thuật để cải thiện chất lượng môi trường tại các khu vực này. Đặc biệt, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 với những quy định cụ thể sẽ là công cụ pháp lý hữu hiệu để quản lý tốt hơn chất lượng môi trường; trong đó có khu công nghiệp (Điều 66), khu vực nông thôn (Điều 69,70 và 71). Để hướng dẫn thực hiện Luật bảo vệ môi trường năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 về quản lý chất thải và phế liệu, trong đó quy định cụ thể các yêu cầu về quản lý nước thải, khí thải và chất thải rắn đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp; Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường trong đó Chương IV về bảo vệ môi trường làng nghề; Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường.
Bên cạnh các công cụ pháp lý, các công cụ kinh tế như thuế, phí bảo vệ môi trường cũng đã được đẩy mạnh áp dụng như phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, chất thải rắn,… Đặc biệt, các biện pháp, chế tài mạnh khác cũng đã và đang từng bước được thực thi có hiệu quả như thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính (Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường), điều kiện quan trắc môi trường đối với đơn vị tư vấn (Nghị định số 127/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ tư vấn quan trắc môi trường), quản lý và bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao (Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao); bảo vệ môi trường làng nghề (Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT ngày 26/12/2011 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về bảo vệ môi trường làng nghề)…
Các công cụ pháp lý, công cụ kinh tế kết hợp với các chương trình tuyên truyền, nâng cao nhận thức, kiến thức cho các bên liên quan trong quản lý và bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp, khu vực nông thôn, làng nghề,…. đã tạo những chuyển biến nhất định trong công tác bảo vệ môi trường, cải thiện chất lượng môi trường tại các khu vực nói trên.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, song kết quả này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tại nhiều địa phương vẫn xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường do phát triển sản xuất các khu công nghiệp, nông thôn ảnh hưởng tới đời sống cộng đồng, sức khỏe nhân dân. Qua các đợt thanh tra, kiểm tra, qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều vụ việc các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp xả chất thải không hoặc chưa xử lý đạt quy chuẩn gây ô nhiễm môi trường đã bị phát hiện và xử phạt như khu công nghiệp Hiệp Phước – Thành phố Hồ Chí Minh (2012), khu công nghiệp Trảng Bàng – Tây Ninh (2013), khu công nghiệp Suối Dầu – Khánh Hòa (2014),…; tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do hóa chất bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp, do hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp núp bóng làng nghề, đặc biệt là các “làng nghề” tái chế phế liệu. Một số nguyên nhân chính dẫn đến những tồn tại nói trên như sau:
- Phân công trách nhiệm quản lý giữa các cơ quan liên quan chưa rõ ràng, còn chồng chéo chức năng thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền phổ biến pháp luật giữa các bên, ví dụ: trong quản lý môi trường nông thôn giữa các Bộ, ngành (Bộ Tài nguyên và Môi trường là đơn vị được giao trách nhiệm quản lý môi trường nói chung và bảo vệ môi trường làng nghề nói riêng (Khoản 8 Điều 3 Nghị định số 21/2013/NĐ-CP ngày 04/03/2013 của Chính phủ); Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy sản, thủy lợi và phát triển nông thôn (Khoản 21 Điều 2 Nghị định số 199/2013/NĐ-CP ngày 26/11/2013 của Chính phủ). Bên cạnh đó, giữa các Bộ, ngành và giữa các cơ quan ở địa phương cũng chưa ban hành, thực thi có hiệu quả các quy chế phối hợp.
- Việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức, cá nhân chưa nghiêm, trong khi một số văn bản pháp luật ban hành chưa kịp thời, thậm chí chưa phù hợp với thực tiễn và hoạt động của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu vực nông thôn.
- Ý thức, trách nhiệm và khả năng bảo vệ môi trường của các chủ đầu tư, chủ cơ sở sản xuất còn hạn chế, đặc biệt là các cơ sở tại khu vực nông thôn, làng nghề. Trách nhiệm bảo vệ môi trường nông thôn đến nay chủ yếu là lồng ghép vào chức năng quản lý ngành nên việc thực thi đối với quy định về bảo vệ môi trường không được ưu tiên so với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội khác. Các cơ quan quản lý địa phương chưa thực sự quan tâm, chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường khu vực nông thôn, đặc biệt là cấp xã, phường, thị trấn.
- Công tác giám sát đầu tư, xây dựng và vận hành hệ thống xử lý chất thải các khu công nghiệp của Ủy ban nhân dân tỉnh, đặc biệt là của Ban Quản lý các khu công nghiệp các tỉnh, thành phố chưa quyết liệt và hiệu quả.
- Đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường chưa được coi trọng đúng mức ngay từ giai đoạn chuẩn bị cho đến khi thi công, vận hành dự án.
Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đồng bộ các giải pháp, từ các giải pháp pháp lý đến các giải pháp về kinh tế, công nghệ; đặc biệt sẽ nghiên cứu xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích đi đôi với các chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường khu công nghiệp, nông thôn, làng nghề. Một số nhiệm vụ trọng tâm cụ thể như sau:
- Xây dựng các quy định hướng dẫn công khai thông tin, vận hành hệ thống quan trắc môi trường tự động trong khu công nghiệp; xây dựng các chế tài, công cụ kinh tế quản lý hiệu quả môi trường khu vực nông thôn, khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
- Tăng cường thanh, kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tại các khu vực nông thôn, khu công nghiệp, cụm công nghiệp; hướng dẫn, thẩm định, lựa chọn các công nghệ sản xuất phù hợp với từng loại hình sản xuất trong khu công nghiệp, khu vực nông thôn, làng nghề.
- Tăng cường đôn đốc, chỉ đạo các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp đẩy nhanh tiến độ xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung của các khu công nghiệp; giám sát chặt chẽ việc thu hút đầu tư các ngành nghề phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt để giảm thiểu rủi ro trong quá trình thiết kế, thi công và vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung khu công nghiệp.
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp, khu vực nông thôn cho các đối tượng là Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban quản lý các khu kinh tế, khu công nghiệp, các chủ đầu tư và chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các khu công nghiệp, khu vực nông thôn.
* Đối với khu vực nông thôn, bên cạnh các giải pháp về cơ chế, chính sách nêu trên, các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở Trung ương và địa phương cần tập trung tổ chức thực hiện các giải pháp sau:
- Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn xây dựng quy chế quản lý, hương ước, quy ước nhằm cụ thể hóa chủ trương, chính sách và huy động sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường, thực hiện chính sách khuyến khích và các biện pháp chế tài trong quản lý môi trường khu vực nông thôn; cơ chế hỗ trợ phát triển của tổ chức dịch vụ môi trường nông thôn.
- Kiện toàn đội ngũ cán bộ thực thi công tác bảo vệ môi trường các cấp, đặc biệt là cấp xã, cấp huyện về cả số lượng và trình độ chuyên môn; nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của các tổ chức dịch vụ môi trường; huy động sự tham gia, theo dõi, giám sát của các tổ chức đoàn thể tại địa phương.
- Tiếp tục huy động nguồn tài chính, tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và các nguồn khác (tổ chức quốc tế, xã hội hóa,…) cho hoạt động bảo vệ môi trường khu vực nông thôn; tập trung vào các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh nông thôn, Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường,…
- Tăng cường xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường tại khu vực nông thôn, nâng cao trách nhiệm tham gia, đóng góp của các cá nhân, hộ gia đình và các cơ sở sản xuất trên địa bàn khu vực.
- Lựa chọn các công nghệ, giải pháp phù hợp với điều kiện khu vực nông thôn hoặc các mô hình đã vận hành có hiệu quả trước khi phổ biến, nhân rộng; ưu tiên các biện pháp giảm thiểu chất thải tại nguồn phát sinh, tăng cường tận thu, tái chế, tái sử dụng chất thải trong nông nghiệp, sản xuất làng nghề.