Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Hoàng Văn Thắng - Chủ tịch Hội đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cho biết, vấn đề an ninh tài nguyên nước vùng Đồng bằng sông Hồng là vấn đề lớn được đặt ra từ nhiều năm nay. Đây là vấn đề lớn liên quan đến an ninh nước, với cách tiếp cận đa ngành. Do vậy, Hội đập lớn phối hợp với Tổng Cục Thủy lợi, Tổng Cục phòng chống thiên tai, Cục Quản lý tài nguyên nước, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Viện Khoa học Thủy Lợi, Trường Đại học Thủy Lợi tổ chức hội thảo này với mong muốn là diễn đàn để các chuyên gia trong lĩnh vực khoa học công nghệ, chuyên gia tài nguyên nước trao đổi, thảo luận tìm hướng giải quyết vấn đề này.
TS. Hoàng Văn Thắng - Chủ tịch Hội đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo
Nhiều nguy cơ đe dọa an ninh nguồn nước sông Hồng
Sông Hồng là sông lớn thứ 2 của Việt Nam (sau sông Mê Công), là sông quốc tế bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, bao gồm lãnh thổ của 3 nước: Việt Nam, Trung Quốc và Lào. Tổng diện tích toàn lưu vực vào khoảng 169.020 km2 (lưu vực nằm ở Việt Nam chiếm 51,3%, Lào chiếm 0,7% còn lại thuộc Trung Quốc). Tuy nhiên, lượng dòng chảy sinh ra tại Việt Nam vào khoảng 61,1% và lượng dòng chảy sinh ra từ Trung Quốc vào khoảng 38,9%. Chiều dài sông Hồng trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 328km. Vùng đồng bằng sông Hồng (châu thổ sông Hồng) bao gồm 12 tỉnh và thành phố (Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình), có diện tích vào khoảng 21.260,3 km², chiếm 6,37% diện tích của cả nước.
Trên lưu vực sông Hồng tổng cộng có 263 hồ chứa thuỷ lợi, thuỷ điện với tổng dung tích 29,4 tỷ m3, dung tích hữu ích 19,2 tỷ m3, dung tích phòng lũ 8,6 tỷ m3. Riêng hệ thống hồ chứa lợi dụng tổng hợp phục vụ phát điện, chống lũ hạ lưu, cấp nước cho sinh hoạt, kết hợp cải tạo môi trường trên dòng chính bao gồm các hồ Hoà Bình 9,8 tỷ m3; Sơn La 9,2 tỷ m3; Lai Châu 1,2 tỷ m3; Bản Chát 2,1 tỷ m3; Huội Quảng 0,18 tỷ m3; Thác Bà 2,9 tỷ m3; Tuyên Quang 2,2 tỷ m3, … Tổng dung tích các hồ chứa thuỷ điện lớn là 27,86 tỷ m3, trong đó dung tích phòng lũ gần 8,5 tỷ m3 (chiếm trên 30% tổng dung tích của các hồ thuỷ điện trong lưu vực). Các nhà máy thuỷ điện (NMTĐ) lớn có tổng công suất lắp máy: 6.260MW, điện lượng thiết kế trung bình nhiều năm khoảng 27 tỷ kWh. Năm 2018 điện lượng đạt gần 31 tỷ kWh điện tương ứng khoảng 14% tổng sản lượng điện của toàn hệ thống. Quan trọng hơn nữa, hệ thống các NMTĐ lớn còn có vai trò quan trọng trong điều tiết, ổn định cho cho hệ thống điện quốc gia trong bối cảnh hiện nay.
Phía Trung Quốc, trên dòng chính đã xây dựng hoặc có kế hoạch xây dựng khoảng 33 NMTĐ. Trong đó, 12 đập trên sông Thao, 13 công trình trên sông Đà (11 công trình đã vận hành) và 08 công trình thủy điện trên sông Lô - Gâm. Các công trình thủy điện đã hoàn thành trên sông Đà có tổng dung tích khoảng 2,556 tỷ m3, các công trình thủy điện đã hoàn thành trên sông Thao có tổng dung tích khoảng 2,146 tỷ m3.
Tổng lượng nước trung bình năm trên sông Hồng tính đến trạm Sơn Tây giai đoạn 1980-2015 là 104 tỷ m3, giai đoạn 2016-2019 là 98,9 tỷ m3. Tổng lượng nước trung bình mùa lũ (tháng VI đến tháng X) giai đoạn 1980-2015 là 73,6 tỷ m3, giai đoạn 2016-2021 (tháng XI đến tháng V năm sau) là 60,6 tỷ m3. Tổng lượng nước trung bình mùa cạn (tháng XI đến tháng IV năm sau) giai đoạn 1980-2015 là 30,4 tỷ m3 chiếm 39% tổng lượng nước cả năm. Lượng nước trung bình tháng nhỏ nhất giai đoạn 1980-2015 là 0,31 tỷ m3 (tháng II năm 1977), giai đoạn 2016-2021 là 2,7 tỷ m3 (tháng XII năm 2019).
Trên dòng chính của sông Hồng tại trạm Hà Nội, giá trị cực trị mực nước ngày nhỏ nhất, tháng nhỏ nhất, ba tháng nhỏ nhất lần lượt là 10,2; 97,1cm; 111cm đối với thời kỳ 1980-2015 và 12,3cm; 89,3cm và 93cm đối với thời kỳ 2016-2021. Giá trị cực trị lưu lượng ngày nhỏ nhất, tháng nhỏ nhất, ba tháng nhỏ nhất lần lượt là 118m3/s; 266 m3/s; 280 m3/s đối với thời kỳ 1980-2015 và 145m3/s; 872 m3/s; 915 m3/s đối với thời kỳ 2016-2021. Qua đó cho thấy, dù cho lưu lượng tăng lên rất nhiều (cực trị lưu lượng tháng nhỏ nhất tăng 227%), nhưng cực trị mực nước tháng vẫn giảm 8cm. Việc hạ thấp mực nước trên sông ảnh hưởng đến khả năng lấy nước của các công trình sử dụng nước dọc sông, nhất là lấy nước vào các HTTL như đầu mối Cẩm Đình, Liên Mạc, Xuân Quan không đảm bảo đủ đầu nước tự chảy vào hệ thống tưới. Để khắc phục tình trạng này hàng năm Bộ Nông nghiệp và PTNT phải phối hợp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam để điều tiết các hồ chứa lớn thượng nguồn sông Hồng (Sơn La, Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang) về hạ du từ 5 đến 7 tỷ m3 nước, ảnh hưởng khá lớn đến hiệu ích phát điện của các hồ trên. Bên cạnh đó việc làm thêm các trạm bơm dã chiến và cải tạo một số trạm bơm tưới dọc dòng chính sông Hồng đang được triển khai để lấy được mực nước thấp nhưng chưa giải quyết được triệt để vấn đề.
Trên LVS Hồng, lượng nước tưới sử dụng khoảng 6,47 tỷ m3/năm, sinh hoạt và công nghiệp là 7,7 tỷ m3/năm, tổng diện tích gieo cấy lúa vụ Đông Xuân của các địa phương từ 570.000-610.000 ha. Theo Quy hoạch Phòng choongd thiên tai và Thuỷ lợi (giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến 2050), nhu cầu nước cho vùng ĐBBB sẽ thiếu khoảng 2,1 tỷ m3 đến 8,5 tỷ m3 (tuỳ theo kịch bản phát triển). Tình trạng thiếu nước tại các vùng chủ yếu tập trung vào mùa khô, do những nguyên nhân: Do điều kiện khí hậu khô hạn có xu hướng tăng; Nhu cầu trong tương lai tăng; Việc hạ thấp mực nước trên sông Hồng ảnh hưởng đến khả năng lấy nước vào các HTTL ngày càng nghiêm trọng.
Kết quả nghiên cứu cũng như thực tiễn cho thấy rằng, trong tương lai gần, an ninh nguồn nước sông Hồng đối với sản xuất và đời sống đang bị đe doạ, cần sự vào cuộc của các nhà khoa học, các nhà quản lý cũng như cả hệ thống chính trị.
Các đại biểu tham dự Hội thảo
Tại Hội thảo các đại biểu đã được nghe các chuyên gia, nhà khoa học trình bày các tham luận: (1) Công tác chỉ đạo, điều hành lấy nước phục vụ gieo cấy vụ đông xuân khu vực trung du và đồng bằng Bắc Bộ; (2) Công tác vận hành hồ chứa của Tập đoàn Điện lực Việt Nam trên lưu vực sông Hồng trong việc đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt; (3) Nghiên cứu giải pháp tổng thể công trình đập dâng nước nhằm ứng phó tình trạng hạ thấp mực nước đảm bảo an ninh nguồn nước cho vùng hạ du sông Hồng; (4) Phân tích ảnh hưởng của khai thác cát lòng sông đến mức độ hạ thấp mực nước mùa kiệt trên sông Hồng; (5) Giải pháp ứng phó với việc hạ thấp mực nước trên vùng trung du và đồng bằng sông Hồng bằng trạm bơm động lực; (6) Giải pháp dẫn nước sông Đà từ cống Lương Phú cấp nước tự chảy cho sông Tích, sông Đáy, sông Nhuệ, Hồ Tây và sông Tô Lịch; (7) Đề xuất giải pháp điều phối dòng chảy trên các hồ chứa sông Hồng phục vụ kinh tế dân sinh và cấp nước trực tiếp từ hồ Hòa Bình cho thủ đô Hà Nội.
Tăng cường công tác thông tin, hoàn thiện hệ thống lấy nước chính dọc sông Hồng
Báo cáo tham luận về các giải pháp đảm bảo cấp nước phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ, đại diện Tổng cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đề xuất, trong giai đoạn 2021-2025 cần khẩn trương có kế hoạch cải tạo, xây dựng mới các Trạm bơm Phù Sa, Ấp Bắc, Trung Hà bổ sung công suất cho các trạm bơm Bạch Hạc, Liễu Trì, Đại Định; xây dựng mới các trạm bơm để thay thế các cống tự chảy Xuân Quan, Liên Mạc đảm bảo cho các công trình này thích ứng với việc hạ thấp mực nước và không phụ thuộc vào lượng xả tăng cường của các nhà máy thủy điện.
Bên cạnh đó, cần hạn chế và dần chấm dứt tình trạng khai thác cát trên hệ thống sông Hồng - Thái Bình, bảo đảm việc khai thác cát không là nguyên nhân gây hạ thấp lòng dẫn; Chuyển dịch cơ cấu sản xuất hợp lý từ cây lúa sang các cây trồng khác có nhu cầu dùng nước thấp hơn ở vùng cao, vùng thường xuyên khó khăn về nguồn nước hoặc nuôi trồng thủy sản ở vùng trũng thấp để đảm bảo tiết kiệm nguồn nước.
Đại diện Tổng cục Thủy lợi báo cáo tham luận tại Hội thảo
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền định hướng sản xuất nông nghiệp của ngành và địa phương, hướng bà con nông dân thay đổi tập quán canh tác để phù hợp với lịch lấy nước tập trung của cả khu vực, không phát sinh nhu cầu lấy nước thêm ngoài lịch lấy nước đã được xây dựng; nâng cao ý thức cộng đồng trong bảo vệ công trình, bảo vệ nguồn nước theo quy định của pháp luật hiện hành.
Xây dựng và sớm ban hành quy trình điều tiết hồ chứa thủy điện/lấy nước phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân; trong đó, quy định rõ các bước thực hiện, trách nhiệm, nghĩa vụ của các địa phương và cơ quan có liên quan.
Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin để chỉ đạo, điều hành quá trình xả/lấy nước như nâng cấp, xây dựng website có tính tương tác cao giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với các địa phương; thực hiện việc thông báo, lấy ý kiến lịch xả nước, báo cáo tiến độ lấy nước,…thông qua website này để tiết kiệm tối đa thời gian.
Về giải pháp lâu dài, cần thực hiện, theo dõi, dự báo thường xuyên tình trạng hạ thấp lòng dẫn sông Hồng làm cơ sở nghiên cứu và triển khai các giải pháp để chống hạ thấp lòng dẫn, nâng cao mực nước hạ du sông (đập ngầm ổn định đáy sông, đập ngăn sông,...); Hoàn thiện hệ thống lấy nước chính dọc sông Hồng để chủ động khả năng lấy nước, không phụ thuộc vào lượng xả từ các hồ chứa thủy điện.
Vận hành linh hoạt, điều chỉnh nâng cao mực nước trước lũ trong các thời kỳ lũ
Ông Nguyễn Quốc Chính, Phó Trưởng ban Kỹ thuật - Sản xuất Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, hiện nay, trên lưu vực sông Hồng, các đơn vị thành viên của EVN quản lý và tham gia quản lý vận hành 7 công trình thủy điện với tổng dung tích là 27,9 tỷ m3, chiếm trên 54,8% tổng dung tích của hồ chứa thủy điện và 44,2% tổng dung tích các hồ chứa trong cả nước. Tổng công suất lắp đặt của các nhà máy thủy điện này là 6.722 MW chiếm khoảng trên 37,7% tổng công suất lắp đặt của các nhà máy thủy điện của cả nước và 12% công suất lắp đặt của hệ thống điện quốc gia.
Với vai trò của mình, trong những năm qua, EVN đã quản lý vận hành khai thác các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Hồng vụ công tác cắt giảm lũ, cấp nước và phát điện đảm bảo an toàn và hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất của EVN và phát triển kinh tế xã hội cho vùng Đồng bằng Bắc bộ.
Với tổng dung tích 27,9 tỷ m3, các hồ chứa thủy điện trên lưu vực sông Hồng của EVN đã góp phần rất lớn vào việc cắt giảm, chậm lũ, giảm thiểu những đáng kể những thiệt hại do lũ bão gây ra cho vùng hạ du khu vực Đồng bằng Bắc bộ và thủ đô Hà Nội.
Ông Nguyễn Quốc Chính, Phó Trưởng ban Kỹ thuật - Sản xuất Tập đoàn Điện lực Việt Nam báo cáo tham luận tại Hội thảo
Trước khi chưa có hồ Hòa Bình tham gia điều tiết lũ, mực nước lũ cao nhất ở Đồng bằng Bắc bộ trong mùa lũ hàng năm thường xuyên ở mức trên báo động III. Các vùng ven bãi thường phải chịu cảnh ngập lụt từ 2 đến 3 tháng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội cũng như sản xuất của nhân dân. Các khu vực bãi ven sông gần như không thể trồng trọt hoặc canh tác được từ tháng 6 đến tháng 9. Từ khi hồ Hòa Bình hoàn thành đi vào vận hành (năm 1994), cùng với hồ Thủy điện Thác Bà tham gia điều tiết cắt giảm lũ, mực nước lũ tại Hà Nội đã giảm rất nhiều so với trước đó: Từ năm 1994 đến 2004, chỉ có 01 năm (2002) mực nước lũ tại Hà Nội vượt báo động III 0,5m, còn lại đều ở mức dưới báo động 3 (11,5m); Từ năm 2005 đến 2009, đều ở mức dưới báo động II (10,5m); Từ năm 2010 đến nay, khi các hồ Sơn La, Lai Châu, Tuyên Quang và Huội Quảng - Bản Chát đi vào vận hành, mực nước lũ tại Hà Nội luôn thấp hơn mức báo động I (9,5m).
Các vùng ven bãi không còn phải chịu cảnh ngập lụt, bà con nhân dân đã có thể canh tác trồng trọt được trong những tháng mùa lũ.
Với trên 18,9 tỷ m3 dung tích hữu ích, mùa khô hàng năm các hồ chứa thủy điện đã tham gia điều tiết cấp nước hạ du đảm bảo cho sản xuất, sinh hoạt và những nhu cầu khác cho phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, hàng năm các hồ chứa (Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà) đã trực tiếp tham gia điều tiết, gia tăng khai thác xả nước xuống hạ du từ 3 đến 5 tỷ m3 nước để cung cấp nước đảm bảo gieo cấy vụ Đông Xuân cho trên 600.000 ha lúa khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc bộ.
Với tổng công suất lắp đặt 6.722 MW, hàng năm, các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Hồng cung cấp cho hệ thống điện sản lượng điện trung bình khoảng trên 27 tỷ kWh. Đóng góp cho ngân sách các địa phương thông qua các khoản thuế, phí khoảng trên 5.000 tỷ đồng. Ngoài ra, với đặc điểm vận hành linh hoạt, các nhà máy thủy điện còn có vai trò rất lớn trong việc điều tiết giữ ổn định tần số, điện áp, nâng cao chất lượng điện năng và góp phần đảm bảo vận hành an toàn hệ thống điện Quốc gia.
Theo ông Nguyễn Quốc Chính, hiện nay, chất lượng các bản tin dự báo khí tượng thủy văn ngắn và trung hạn từ 24, 48 và 72 giờ đã được cải thiện đáng kể. Khả năng nhận diện sớm lũ lớn và rất lớn có thể biết trước 10 - 15 ngày và dự tính được tổng lượng lũ để cấp có thẩm quyền chủ động, linh hoạt trong quá trình vận hành. Hệ thống các hồ chứa trên lưu vực sông Hồng đã đi vào vận hành ổn định, sự điều chỉnh phản ứng của Hệ thống điện đã linh hoạt và kịp thời hơn. Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên xã hội, lòng dẫn sông…. có rất nhiều thay đổi, đặc biệt việc hình thành các hồ chứa phía Trung Quốc và các công trình thủy điện trên bậc thang sông Đà đã hoàn thành và đi vào hoạt động, khả năng kiểm soát và điều tiết lũ được nâng cao và an toàn hơn. Do đó, để nâng cao hiệu quả khai thác nguồn nước cho phát triển kinh tế xã hội, đại diện EVN cũng kiến nghị, các Bộ, ban, ngành trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt sửa đổi, bổ sung Quyết định 740/QĐ-TTg ngày 17 tháng 6 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng.
Ngoài ra, đại diện EVN cũng kiến nghị, để đảm bảo khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các địa phương sớm có kế hoạch gieo cấy, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ cho phù hợp với tình hình nguồn nước, chủ động thực hiện các giải pháp lấy nước đảm bảo gieo cấy; tiếp tục thực hiện và chỉ đạo thực hiện các giải pháp tổng thể về công trình để các địa phương và thành phố Hà Nội có thể chủ động lấy nước phục vụ gieo cấy và những nhu cầu khác cho phát triển kinh tế xã hội không phụ thuộc vào dòng chảy bổ sung từ các hồ chứa thủy điện;…
Xây dựng các công trình dâng nước - Giải pháp căn cơ cho vấn đề an ninh nguồn nước vùng hạ du sông Hồng
GS.TS. Trần Đình Hòa - Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam cho biết, theo kết quả tính toán về nguồn nước cho vùng hạ du sông Hồng, nhu cầu nước hiện tại khoảng 18 tỷ m3; năm 2050 khoảng 22 tỷ m3 (chiếm 22% lượng nước đến). Tỷ trọng nhu cầu nước cho nông nghiệp hiện tại là 80%, đến 2050 còn 66%. Nếu không có các hồ chứa lớn ở thượng du thì 3 tháng II, III, IV bị thiếu nước. Trong thời gian xả nước gia tăng tổng lưu lượng xả vượt xa nhu cầu dùng nước.
Để khắc phục hiện tượng suy giảm mực nước trên sông Hồng, trong thời gian qua một số giải pháp trước mắt đã được thực hiện như: Điều hành xả nước gia tăng từ các hồ chứa nhằm dâng mực nước trong từng thời điểm nhất định; Lắp đặt các trạm bơm dã chiến phục vụ nhu cầu tưới tiêu; Nạo vét luồng lạch, hạ thấp cốt đáy các công trình lấy nước dọc sông Hồng. Tuy nhiên, các giải pháp này về cơ bản chỉ mới đáp ứng được các nhu cầu trước mắt, tức thời và hạn chế đáp ứng trong phạm vi đối với nông nghiệp, thủy lợi.
Xu thế chung đối với vùng hạ du của các công trình Thủy điện ở thượng nguồn là mất cân bằng về chế độ cấp nước cho hạ du và sự hạ thấp lòng dẫn, dẫn đến hạ thấp mực nước trong sông về mùa khô nghiêm trọng. Do đó, về lâu dài, cần phải có một giải pháp tổng thể cho vấn đề an ninh nguồn nước sông Hồng. Giải pháp mang tính chiến lược, đa mục tiêu, phát triển bền vững.
Trên cơ sở phân tích điều kiện kinh tế và trình độ khoa học công nghệ hiện nay, giải pháp xây dựng các công trình dâng nước sông Hồng để điều tiết nguồn nước phục vụ sản xuất và kinh tế - xã hội có thể được xem là giải pháp phù hợp nhất để giải quyết căn cơ cho vấn đề an ninh nguồn nước vùng hạ du sông Hồng.
GS.TS. Trần Đình Hòa - Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam báo cáo tham luận tại Hội thảo
Tại Hội thảo, các đại biểu cũng đã trao đổi, thảo luận về các giải pháp tổng thể để đảm bảo an ninh nguồn nước cho Đồng bằng sông Hồng. Trong đó tập trung vào 2 nhóm chính là giải pháp công trình và giải pháp phi công trình. Một số giải pháp đã được tập trung thảo luận cụ thể như: Giải pháp ứng phó với việc hạ thấp mực nước trên vùng trung du và đồng bằng sông Hồng bằng trạm bơm động lực; Giải pháp dẫn nước sông Đà từ cống Lương Phú cấp nước tự chảy cho sông Tích, sông Đáy, sông Nhuệ, Hồ Tây và sông Tô Lịch; Giải pháp điều phối dòng chảy trên các hồ chứa sông Hồng phục vụ kinh tế dân sinh và cấp nước trực tiếp từ hồ Hòa Bình cho thủ đô Hà Nội; Giải pháp chống hạn cho đồng bằng sông Hồng;….
Các đại biểu thảo luận tại Hội thảo
Phát biểu kết luận Hội thảo, TS. Hoàng Văn Thắng đánh giá các các tham luận và các ý kiến phát biểu tại Hội thảo. Trên cơ sở các ý kiến đóng góp tại Hội thảo, ban tổ chức sẽ tổng hợp và cùng các đơn vị chuyên môn xây dựng các kịch bản đảm bảo an ninh nguồn nước Đồng bằng sông Hồng. Trong đó, sẽ đưa ra các hành động không hối tiếc, những hành động có thể làm được như: Tối ưu hóa việc cách lấy nước ở sông Hồng để tránh lãnh phí nước; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng các giải pháp công trình và phi công trình; kết hợp các biện pháp để phục hồi lòng dẫn, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xây dựng hệ thống thông tin về tài nguyên nước;...
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo