Chiều ngày 30/9, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành đã chủ trì cuộc họp trực tuyến Hội đồng cấp Bộ thẩm định Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Tham dự cuộc họp trực tuyến tại các điểm cầu có Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh - Phó Chủ tịch Hội đồng; cùng các thành viên Hội đồng là đại diện các cơ quan, chuyên gia tài nguyên nước.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành phát biểu chủ trì cuộc họp trực tuyến Hội đồng thẩm định cấp Bộ Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050
Báo cáo tại cuộc họp, ông Nguyễn Ngọc Hà - Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, đơn vị chủ trì lập Quy hoạch cho biết, Lưu vực sông Cửu Long có tổng diện tích tự nhiên khoảng 39.945 km2 , bao gồm: 13 tỉnh, thành phố: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ.
Lưu vực sông Cửu Long có vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Với tiềm năng nông nghiệp lớn, trong nhiều năm qua, lưu vực sông Cửu Long luôn đóng góp khoảng 50% sản lượng lúa gạo, 70% lượng trái cây của cả nước, và đóng góp 90% sản lượng gạo xuất khẩu, 60% sản lượng thủy sản xuất khẩu. Nguồn nước lưu vực sông Cửu Long được đánh giá là dồi dào với tổng lượng tài nguyên nước hàng năm khoảng 471 tỷ m3, trong đó lượng nước nội sinh từ mưa trên lưu vực sông Cửu Long khoảng 30 tỷ m3 và lượng nước từ thượng lưu chảy về lưu vực sông Cửu Long khoảng 441 tỷ m3.
Ông Nguyễn Ngọc Hà cũng cho biết, hiện nay, lưu vực sông Cửu Long đã và đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, nhất là các tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) như nước biển dâng (NBD), hạn hán, gia tăng xâm nhập mặn, xói lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đất, các tác động do khai thác, sử dụng tài nguyên nước ở thượng lưu Mê Công… Những vấn đề lớn mà tài nguyên nước lưu vực sông Cửu Long đang phải đối mặt như sau:
Một là, hạn chế trong điều kiện tự nhiên và tác động của BĐKH đến tài nguyên nước. Tuy nằm ở hạ lưu châu thổ sông Mê Công, thừa hưởng nhiều thuận lợi từ vị trí địa lý, nguồn nước phong phú, đất đai bằng phẳng, màu mỡ và được phù sa bồi đắp hàng năm, thủy sản dồi dào với nhiều giống loài, bờ biển và vùng biển rộng lớn với nhiều tài nguyên..., song lưu vực sông Cửu Long cũng luôn đối mặt với không ít khó khăn và hạn chế trong điều kiện tự nhiên, với những tác động không nhỏ và khôn lường từ các hoạt động ở thượng lưu, và hơn cả là với các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ngay chính trong nội tại của lưu vực.
BĐKH trong 30 năm qua, đặc biệt 10 năm gần đây có xu thế ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường, gây nhiều tổn thất trên tất cả các mặt về kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh. Các biểu hiện rõ rệt nhất do tác động của BĐKH lên lưu vực sông Cửu Long là nước biển dâng (khoảng 12-15 cm trong 30 năm qua), xâm nhập mặn ngày càng nghiêm trọng, hạn hán và cạn kiệt dòng chảy, xói lở bờ sông, bờ biển, mưa lớn gây ngập úng, phân hóa lũ ngày càng cao (số năm lũ nhỏ tăng, số năm lũ lớn giảm) và diễn biến lũ ngày càng phức tạp.
Hai là, ảnh hưởng của việc khai thác, sử dụng nước phía thượng nguồn sông. Nằm ở cuối hạ nguồn lưu vực sông Mê Công, lưu vực sông Cửu Long chịu ảnh hưởng mạnh mẽ vào quá trình khai thác và sử dụng nước của tất cả các quốc gia thượng lưu, đặc biệt là tác động của hệ thống thủy điện cả trên dòng chính và dòng nhánh sông Mê Công.
Ba là, tác động tổng hợp của BĐKH và phát triển thượng lưu. BĐKH xảy ra trên toàn lưu vực sông Mê Công, kể cả thượng lưu và hạ lưu, trong đó có lưu vực sông Cửu Long. Tác động của BĐKH trên toàn lưu vực có thể dẫn đến thiếu hụt lượng mưa năm trên cả hay từng phần lưu vực khiến tổng lượng dòng chảy năm cũng giảm tương ứng. Đồng thời, với việc gia tăng sử dụng nước và phát triển thủy điện, khiến dòng chảy lũ càng giảm nhỏ (lũ 2015), dòng chảy kiệt càng xuống thấp (kiệt 2016, 2019). Trong khi đó, tại lưu vực sông Cửu Long, nước biển dâng và hạn hán càng làm cho tình trạng thiếu nước và xâm nhập mặn xảy ra nghiêm trọng.
Ông Nguyễn Ngọc Hà - Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia báo cáo tại cuộc họp
Bốn là, khai thác, sử dụng nguồn nước chưa hợp lý ngay tại lưu vực sông Cửu Long: lưu vực sông Cửu Long là vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất nước, tổng nhu cầu nước ngọt trong năm dao động từ 700-2.000 m3/s, đặc biệt vào các tháng mùa khô/kiệt, chiếm đến 15-50% dòng chảy kiệt vào lưu vực sông Cửu Long, khiến bài toán “cân bằng cung-cầu” trở thành vấn đề quan trọng hơn trong quản lý nước. Bên cạnh đó, ở nhiều vùng, đặc biệt các khu vực ven biển thuộc các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng..., tình hình khai thác nước dưới đất với quy mô lớn ngày càng diễn biến phức tạp, vừa làm giảm cung lượng và mực nước dưới đất, vừa gây ô nhiễm và nhiễm mặn nguồn nước. Ngoài ra, qua nhiều năm phát triển, với hệ thống thủy lợi các cấp trải rộng khắp lưu vực sông, gồm kênh mương, bờ bao, đê kè, cống bọng..., cùng mạng lưới giao thông thủy bộ đan dày và hệ thống hạ tầng khác, khiến vấn đề quản lý, khai thác và sử dụng nước trên lưu vực sông Cửu Long ngày càng khó khăn và khó kiểm soát.
Năm là, diễn biến thiên tai và tác động của BĐKH trong thời gian gần đây dẫn đến những vấn đề cấp thiết trong quản lý nước. Hệ thống nước ở lưu vực sông Cửu Long cơ bản là hệ thống mở. Mỗi tác động từ thượng lưu, từ biển hay từ bất kỳ khu vực nào cũng đều có thể tác động đến toàn châu thổ. Do vậy, khi xuất hiện thiên tai cực trị, như lũ lớn, hạn nặng, mặn cao..., đều có tác động ít nhiều đến toàn vùng.
Sáu là, những năm gần đây, do tác động của BĐKH và NBD khiến thủy triều ngày càng cao, với triều trung bình tăng khoảng 12 cm trong 25 năm qua, trong khi đỉnh triều cường còn tăng nhiều hơn, từ 20-25 cm, là nguyên nhân gây ngập lụt nghiêm trọng các đô thị ven biển và ảnh hưởng triều, như Cần Thơ, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.
Bẩy là, đất ngập nước lưu vực sông Cửu Long có hệ sinh thái khá phong phú, trong đó, đồng lúa nước là hệ sinh thái lớn nhất và chiếm ưu thế so với các hệ sinh thái khác, với 1,9 triệu ha. Tuy nhiên, do áp lực phát triển kinh tế - xã hội và tác động của BĐKH khiến vùng đất ngập nước lưu vực sông Cửu Long ngày càng suy giảm về số lượng và chất lượng.
Tám là, trước các tác động và thách thức của BĐKH, phát triển thượng lưu ngày 17/11/2017 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Tiếp theo ngày 18/6/2022 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 78/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18 tháng 6 năm 2022 của Bộ Chính trị về Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Với những lý do nêu trên, việc lập và phê duyệt Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là rất cần thiết để cụ thể hóa Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/2/2022.
Theo đó, Quy hoạch Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 hướng đến mục tiêu bảo đảm an ninh tài nguyên nước, thích ứng với biến đổi khí hậu trên lưu vực sông, điều hòa, phân bổ nguồn nước một cách phù hợp, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước, nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả, tác hại do nước gây ra; phục hồi các nguồn nước, cảnh quan môi trường các dòng sông bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nghiêm trọng.
Trong đó, mục tiêu đến năm 2030 là điều hòa, phân bổ nguồn nước bảo đảm hài hòa lợi ích cho các địa phương, các đối tượng khai thác, sử dụng nước, đáp ứng nhu cầu nước cho sinh hoạt và các ngành sản xuất công nghiệp; bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ chức năng nguồn nước, nguồn sinh thủy, sự lưu thông dòng chảy, các hồ, ao có chức năng điều hòa, có giá trị đa dạng sinh học; bảo đảm lưu thông dòng chảy, phòng, chống sạt lở bờ, bãi sông, giảm thiểu tác hại do nước gây ra, phòng, chống sụt, lún do khai thác nước dưới đất; phục hồi các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nghiêm trọng, ưu tiên đối với các khu vực trọng điểm phát triểm kinh tế - xã hội; Quản lý, vận hành hệ thống thông tin, dữ liệu giám sát thực hiện quy hoạch, một số chỉ số an ninh tài nguyên nước của lưu vực sông phù hợp.
Phấn đấu đạt được một số chỉ tiêu cơ bản như: 100% các nguồn nước sông liên tỉnh được công bố khả năng tiếp nhận nước thải; 100% công trình khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước được giám sát vận hành và kết nối hệ thống theo quy định; 100% hồ, ao có chức năng điều hòa, có giá trị cao về đa dạng sinh học không được san lấp được công bố; 70% nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ được cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước; 50% tổng lượng nước thải tại các đô thị loại II và 20% từ các đô thị từ loại V trở lên được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra môi trường.
Tầm nhìn đến năm 2050 là duy trì, phát triển tài nguyên nước, điều hòa, phân bổ nguồn nước bảo đảm an ninh tài nguyên nước, thích ứng với biến đổi khí hậu và phù hợp với các điều ước quốc tế, hợp tác song phương liên quan đến tài nguyên nước mà Việt Nam đã tham gia; tăng cường bảo vệ tài nguyên nước, bảo đảm số lượng, chất lượng nước đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và giảm thiểu tối đa tác hại do nước gây ra. Hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước được thực hiện theo phương thức trực tuyến trên cơ sở quản trị thông minh; bổ sung và nâng cao một số chỉ tiêu của quy hoạch, quản lý tổng hợp tài nguyên nước phù hợp với giai đoạn phát triển của quốc gia, ngang bằng với các quốc gia phát triển trong khu vực; bảo đảm an ninh tài nguyên nước, nâng cao giá trị của nước phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới.
Trên cơ sở đó, phạm vi của Quy hoạch thuộc 13 tỉnh/thành phố, gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang, với diện tích 39.945 km2 (không tính diện tích các đảo). Đối tượng lập quy hoạch là nguồn nước mặt, nước dưới đất trên lưu vực sông Cửu Long.
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, Quy hoạch sẽ triển khai thực hiện các nhóm nội dung chính như sau: Đánh giá số lượng, chất lượng của nguồn nước và dự báo xu thế biến động dòng chảy, mực nước của các tầng chứa nước; Đánh giá hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyên nước; Dự báo nhu cầu sử dụng nước; Phân vùng chức năng của nguồn nước; Xác định tỷ lệ phân bổ tài nguyên nước cho các đối tượng khai thác, sử dụng nước; Xác định nguồn nước dự phòng để cấp nước sinh hoạt trong trường hợp xảy ra sự cố ô nhiễm nguồn nước; Xác định thứ tự ưu tiên và tỷ lệ phân bổ trường hợp hạn hán, thiếu nước; Xác định yêu cầu bảo vệ tài nguyên nước đối với các hoạt động khai thác, sử dụng nước và các hệ sinh thái thủy sinh; Xác định các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt; đánh giá diễn biến chất lượng nước, phân vùng chất lượng nước; Xác định khu vực bờ sông bị sạt, lở hoặc có nguy cơ bị sạt, lở; Xác định khu vực bị sụt, lún đất hoặc có nguy cơ bị sụt, lún đất do thăm dò, khai thác NDD; tình hình, diễn biến, xác định nguyên nhân sụt, lún đất; Xác định hệ thống giám sát tài nguyên nước, khai thác, sử dụng nước, chất lượng nước và giám sát xả nước thải vào nguồn nước; Xác định các giải pháp thực hiện phân bổ nguồn nước, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; Xác định kinh phí, kế hoạch và tiến độ thực hiện.
Sản phẩm quy hoạch bao gồm: Báo cáo tổng hợp Quy hoạch; Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; Bản đồ tổng hợp hiện trạng tài nguyên nước tỷ lệ 1:100.000; Bản đồ quy hoạch tổng hợp lưu vực sông tỷ lệ 1:100.000; Cơ sở dữ liệu về quy hoạch và bộ mô hình số lập quy hoạch tổng hợp lưu vực sông; Dự thảo tờ trình, dự thảo quyết định phê duyệt quy hoạch tổng hợp lưu vực sông; Danh mục công trình điều tiết, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước.
Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh - Phó Chủ tịch Hội đồng phát biểu tại cuộc họp
Góp ý tại cuộc họp, các thành viên Hội đồng thẩm định đều đánh giá tính cấp thiết của việc thực hiện nhiệm vụ Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Bên cạnh đó, các thành viên Hội đồng cũng đã phát biểu, góp ý chi tiết nhằm tiếp tục hoàn thiện nội dung, hồ sơ sản phẩm của Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hội đồng cũng nhất trí thông qua Quy hoạch sau khi đơn vị thực hiện tiếp thu, chỉnh sửa các góp ý của các thành viên hội đồng trước khi trình phê duyệt.
Góp ý dự thảo, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà - Ủy viên phản biện 1 đề nghị, Quy hoạch cần rà soát, cập nhật Nghị quyết số 13- NQ/TW ngày 2/4/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 21 tháng 1 năm 2021 của Chính phủ Ban hành Chương trình hành động tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường theo Kết luận số 56- KL/TW ngày 23 tháng 8 năm 2019 của Bộ Chính trị; Kết luận số 36/KL-TW của Bộ Chính trị ngày 23 tháng 6 năm 2022 về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước và các chủ trương khác có liên quan để giải quyết các vấn đề cốt lõi về tài nguyên nước trên lưu vực nhằm đảm bảo nước cho các mục đích sử dụng, nước cho cảnh quan môi trường, phục hồi dòng sông bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm, xâm nhập mặn và tác động của nguồn nước liên quốc gia.
Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà - Ủy viên phản biện 1 phát biểu tại cuộc họp
Về nội dung và giải pháp Quy hoạch, theo Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà, căn cứ vào các định hướng trong phương hướng khai thác, bảo vệ tài nguyên nước lưu vực sông trên lãnh thổ vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được phê duyệt tại Quyết định số 287/QĐ-TTg nêu trên, cần cụ thể hóa các nội dung trong quy hoạch vùng theo hướng lấy tài nguyên nước làm cốt lõi, quy hoạch tài nguyên nước là cơ sở để định hướng khai thác sử dụng nước cho các ngành dùng nước chính.
Đối với phân vùng chức năng nguồn nước, cần luận chứng rõ việc phân vùng chức năng đảm bảo được mục tiêu chủ động quản lý nhu cầu, phân bổ dựa trên khả năng của nguồn nước; ưu tiên phân vùng chức năng nguồn nước hiện đang được sử dụng cho các mục đích chính bao gồm cấp nước sinh hoạt, tưới, công nghiệp, du lịch, dịch vụ, bảo vệ môi trường và duy trì ranh mặn vào mùa khô/kiệt; nguồn nước dưới đất được sử dụng cho các mục đích cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp phù hợp với khả năng của nguồn nước; hạn chế khai thác sử dụng nguồn nước dưới đất tại các khu vực bị sụt lún đất, xâm nhập mặn.
Đối với phân bổ nguồn nước trong trường hợp bình thường, cần chỉ rõ các vấn đề mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước giữa các đối tượng sử dụng nước chính trên lưu vực, tác động của việc khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn đến lưu vực và đề xuất các phương án giải quyết trong đó nghiên cứu biện pháp thúc đẩy hợp tác, chia sẻ thông tin, dữ liệu nguồn nước Mê Công; bổ sung các định hướng cụ thể để thực hiện việc Quản lý hệ thống thủy lợi tưới tiêu một cách hợp lý, tránh gây ô nhiễm, tù đọng làm suy giảm chất lượng nước mặt.
Đối với phân bổ nguồn nước trong trường hợp hạn hán thiếu nước, cần bổ sung, làm rõ định hướng cụ thể trong việc điều hòa phân phối nước bảo đảm an ninh về nước cho tiểu các vùng; phương án cụ thể cắt giảm nhu cầu sử dụng nước của từng đối tượng sử dụng nước theo tỷ lệ phù hợp, bảo đảm thứ tự ưu tiên theo định hướng tại Quyết định số 287/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;…
Toàn cảnh cuộc họp trực tuyến
Ông Trương Hồng Tiến - Phó Chánh Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam đề nghị, xem xét bổ sung trong Báo cáo quy hoạch về cách tiếp cận, phương pháp tính toán đã được áp dụng để tính toán, đánh giá hiện trạng và dự báo xu thế biến động tài nguyên nước; nêu rõ phương pháp tính toán lượng nước trong các tiểu lưu vực, cũng như các loại nguồn nước khác nhau (nước ngọt, nước mặn); xem xét bổ sung cách tiếp cận để lập thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn nước trên các vùng thiếu nước; …..
Ông Dương Hồng Sơn - Viện trưởng Viện Khoa học tài nguyên nước đề nghị, đối với báo cáo tổng hợp của Quy hoạch cần rà soát và phân tích đầy đủ hiện trạng và vấn đề của từng nội dung quy hoạch để có cơ sở đưa ra các mục tiêu quy hoạch phù hợp; rà soát lại các kết quả tính toán về lượng nước mặt nội sinh, cần làm rõ phương pháp tính toán, ý nghĩa và các thành phần tạo nên nước mặt nội sinh ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long; bổ sung các bản đồ về hiện trạng khai thác sử dụng nước trên vùng sông Cửu Long. Về phân vùng chức năng nguồn nước, cần bổ sung thêm phân tích về hiện trạng khai thác sử dụng nước, hiện trạng xả thải, cũng như các quy hoạch phát triển về khai thác sử dụng nước và xả thải trên các đoạn sông để làm căn cứ phân vùng chức năng nguồn nước cho các đoạn sông;….
Đại diện Tổng cục Khí tượng thủy văn đề nghị xem xét bổ sung thông tin về hiện trạng, hệ thống xử lý nước thải của các cơ sở xả thải, việc chấp hành của các cơ sở xả thải, hiệu quả trong xử lý nước thải trên lưu vực sông Cửu Long, từ đó có thể đánh giá và đưa ra những dự báo về chất lượng nước tại những khu vực xả thải; bổ sung thông tin số lượng trạm quan trắc thuỷ văn và trạm đo mặn trên lưu vực sông Cửu Long; xem xét bổ sung nội dung về “Xây dựng và duy trì mạng lưới quan trắc khí tượng thuỷ văn trong lưu vực sông Cửu Long”;…
Toàn cảnh cuộc họp trực tuyến
Kết luận cuộc họp, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành ghi nhận và đánh giá cao những ý kiến phát biểu của các thành viên Hội đồng đã nghiên cứu tài liệu một cách nghiêm túc để đưa ra những ý kiến đóng góp rất chi tiết, mang tính chất xây dựng cho bản Quy hoạch đảm bảo chất lượng và phù hợp với các quy hoạch cấp cao hơn, cũng như các quy hoạch của các ngành có liên quan.
Thứ trưởng đề nghị, Cục Quản lý tài nguyên nước, Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, Văn phòng thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam cùng với các đơn vị tài nguyên nước của Bộ nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ các ý kiến của các thành viên hội đồng, tiếp tục hoàn thiện bản Quy hoạch trình Bộ để gửi xin ý kiến các Bộ, ngành và các địa phương liên quan.
Thứ trưởng yêu cầu, Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 cần bám sát các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị và Chính phủ; và các định hướng trong phương hướng khai thác, bảo vệ tài nguyên nước lưu vực sông trên lãnh thổ vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được phê duyệt làm căn cứ chính trị, kim chỉ nam xuyên suốt quá trình xây dựng Quy hoạch. “Vùng Đồng bằng sông Cửu Long là lưu vực rộng, vấn đề tài nguyên nước có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân và hợp tác với các nước thượng lưu. Theo đó, cần phải đánh giá, xem xét đầy đủ các khía cạnh và tầm quan trọng của quy hoạch tài nguyên nước nhằm đảm bảo nước cho các mục đích sử dụng. Quy hoạch tài nguyên nước phải là cơ sở để định hướng khai thác, sử dụng nước cho các ngành dùng nước chính” - Thứ trưởng nhấn mạnh.