Theo nhận định của các chuyên gia, khả năng xảy ra hạn hán, thiếu nước những tháng đầu năm 2020 được dự báo sẽ gay gắt và khốc liệt hơn đợt hạn năm 2015 - 2016, nhất là từ tháng 4, 5 tới sẽ là rất cao khi cả nước bắt đầu bước vào thời điểm nắng nóng, nhu cầu dùng điện tăng cao,...đặc biệt ở các tỉnh Nam Bộ. Song, nhờ có dự báo, cảnh báo tốt, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ ngành, các địa phương nên thiệt hại giảm rất nhiều so với năm 2016.
Để chủ động kiểm soát và quản lý nguồn nước, trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tích cực triển khai nhiều giải pháp như: Tăng cường, nâng cao độ chính xác trong công tác dự báo, cảnh báo các hiện tượng cực đoan, đặc biệt là hạn hán; giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước và giám sát việc vận hành các hồ chứa cấp nước cho hạ du; đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò nguồn nước dưới đất để có thể cung cấp cho các vùng khan hiếm nước mà nguồn nước các hồ chứa không cấp tới được. Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh đã có cuộc trao đổi với phóng viên báo chí xung quanh vấn đề này.
Phóng viên: Xin ông cho biết dự báo, nhận định về tình trạng hạn hán trong năm 2020?
Phó Cục trưởng Châu Trần Vĩnh:
Nguy cơ xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước đã được Bộ Tài nguyên và môi trường nhận định và cảnh báo từ những tháng cuối năm 2019, đầu năm 2020 và đã thông báo đến các Bộ, ngành, địa phương. Theo dự báo thì từ đầu tháng 1 đến tháng 6/2020, dòng chảy trên các sông phổ biến thiếu hụt so với trung bình nhiều năm (TBNN), cụ thể Bắc Bộ 20-50%, Trung Bộ và Tây Nguyên từ 40-70%; dòng chảy thượng nguồn sông Mê Kông các tháng đầu năm thấp hơn từ 20-45% và trong nửa cuối tháng 2-3/2020 ở mức thiếu hụt so với năm 2016 là 5-20%.
Nhiều hồ chứa, đặc biệt là các hồ chứa lớn, quan trọng, lượng nước tích được đầu mùa cạn là không nhiều, chỉ từ 40-75% tùy từng hồ, đặc biệt có hồ chứa chỉ tích được khoảng 20%. Các hồ chứa thủy lợi vừa và nhỏ cũng chỉ tích được 70-80%, nhiều hồ chỉ đạt 40-50%.
Như vậy, khả năng xảy ra hạn hán, thiếu nước những tháng đầu năm 2020 được dự báo sẽ gay gắt và khốc liệt hơn đợt hạn năm 2015 - 2016, nhất là từ tháng 4, 5 tới sẽ là rất cao khi cả nước bắt đầu bước vào thời điểm nắng nóng, nhu cầu dùng điện tăng cao,...đặc biệt ở các tỉnh Nam Bộ, trong trường hợp cực đoan, thời gian thiếu mưa kéo dài kết hợp với việc sử dụng và khai thác tài nguyên nước trong lưu vực (tăng sử dụng nước trên các dòng nhánh và trữ nước tại các đập ở thượng lưu) sẽ làm cho tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn kéo dài hơn và trở nên trầm trọng hơn.
Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh
Phóng viên: Trước tình hình trên, Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã thực hiện những biện pháp nào để hạn chế tác động, thích nghi với diễn biến hạn hán hiện nay, thưa ông?
Phó Cục trưởng Châu Trần Vĩnh:
Từ đầu tháng 12/2019 đến nay, Cục Quản lý tài nguyên nước cũng đã chủ động phối hợp với các địa phương, các chủ hồ để đôn đốc, bàn bạc phương án vận hành, có địa phương cũng đã chủ động đề xuất điều chỉnh giảm lưu lượng xả trong các tháng mùa cạn hoặc cắt giảm diện tích sản xuất nông nghiệp trong điều kiện thiếu hụt nguồn nước. Vì vậy, mặc dù lưu lượng đến các hồ chứa là rất nhỏ, nhưng hiện nay các hồ chứa vẫn duy trì được mực nước tối thiểu hoặc nâng dần lên để có thể đủ nguồn nước cân đối cho mùa cạn.
Đối với các hồ chứa đang có thiếu hụt nguồn nước như hồ Cửa Đạt (sông Mã), Bình Điền (sông Hương), A Vương (Vu Gia - Thu Bồn), Ka Nak (Ba), Sê San 4 (Sê San), Đại Ninh (Đồng Nai) …Cục đã trình lãnh đạo Bộ có văn bản phối hợp, chỉ đạo điều hành các hồ chứa. Các hồ chứa này do vẫn thiếu hụt nên phương án điều chỉnh giảm lưu lượng xả xuống hạ du là phù hợp để bảo đảm đủ nước cấp cho từ 5-7 tháng còn lại của mùa cạn.
Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục chỉ đạo Tổng Cục Khí tượng thủy văn, Cục Quản lý tài nguyên nước và các cơ quan chức năng tăng cường, nâng cao độ chính xác trong công tác dự báo, cảnh báo các hiện tượng cực đoan, đặc biệt là hạn hán; giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước và giám sát việc vận hành các hồ chứa cấp nước cho hạ du; đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò nguồn nước dưới đất để có thể cung cấp cho các vùng khan hiếm nước mà nguồn nước các hồ chứa không cấp tới được. Bên cạnh đó, Bộ sẽ đẩy mạnh xây dựng Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh; hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước.
Phóng viên: Tại một số địa phương, chính quyền cho khai thác nguồn nước ngầm để phục vụ sinh hoạt và sản xuất, xin ông cho biết các phương án để vừa bảo đảm ổn định cuộc sống vừa tránh suy thoái, cạn kiệt nguồn nước ngầm?
Phó Cục trưởng Châu Trần Vĩnh:
Rút kinh nghiệm từ đợt hạn mặn năm 2015-2016, chúng ta đã chủ động để ứng phó với đợt hạn mặn 2019-2020 mà theo dự báo có thể nghiêm trọng hơn đợt hạn mặn 2015-2016. Một số địa phương đã chủ động có phương án khai thác nguồn nước ngầm để cấp nước sinh hoạt, sản xuất trong tình huống chống hạn cấp bách.
Theo quy định của Luật tài nguyên nước thì trong trường hợp khai thác nước để ứng phó với tình trạng khẩn cấp thì không phải có giấy phép. Tuy nhiên, để bảo đảm vừa đáp ứng yêu cầu chống hạn, đồng thời tránh nguy cơ suy thoái, cạn kiệt nguồn nước ngầm thì giếng khoan phải được bố trí ở vị trí hợp lý, có thiết kế đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật, khai thác với lưu lượng hợp lý để không làm hạ thấp mực nước quá mức gây ô nhiễm, xâm nhập mặn, sụt lún đất khi khai thác.
Đồng thời, cũng phải có những giải pháp lâu dài để ứng phó, trong đó có việc đầu tư thăm dò, đánh giá trữ lượng, chất lượng nước ngầm để xây dựng các công trình khai thác lâu dài và đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép khai thác theo quy định của pháp luật về tài nguyên nước.
Để ứng phó với hạn mặn, đã có địa phương xây dựng nhà máy nước khai thác kết hợp giữa nước mặt, nước ngầm (Nhà máy nước Ngã Bảy, Hậu Giang) để cấp nước sinh hoạt, sản xuất, đây là mô hình cần nghiên cứu, xem xét để có nhân rộng nhằm chủ động ứng phó với hạn mặn của vùng ĐBSCL.
Phóng viên: Rõ ràng, sự biến động bất thường của khí hậu đang đe dọa an ninh nguồn nước. Vậy, theo ông, để thiết lập khả năng tiếp cận nguồn cung cấp nước bền vững trước những thay đổi của biến đổi khí hậu (BÐKH), thời gian tới chúng ta cần phải làm gì?
Phó Cục trưởng Châu Trần Vĩnh:
Trên thực tế, tài nguyên nước bị tác động mạnh nhất và trực tiếp nhất trước diễn biến của BÐKH, kéo theo các vấn đề về dân sinh, kinh tế và môi trường. Trong bối cảnh đó, cần tập trung vào các giải pháp, như: Xây dựng và phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, quy hoạch tài nguyên nước các lưu vực sông lớn, đặc biệt là lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long. Ðẩy mạnh thanh tra, kiểm tra; tăng cường giám sát việc khai thác sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước thông qua hình thức giám sát tự động, trực tuyến. Tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia nhằm nắm chắc nguồn tài nguyên nước Việt Nam và hiện trạng khai thác sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước. Tiếp theo là tăng cường giám sát, chỉ đạo việc vận hành các hồ chứa lớn, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông quan trọng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Cùng với đó, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các biện pháp sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả đến tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức cá nhân và cộng đồng dân cư.
Một trong những giải pháp để kiểm soát và quản lý nguồn nước trong bối cảnh BÐKH hiện nay là đầu tư các trạm quan trắc. Hiện tại, chúng ta đang xây dựng và đưa vào vận hành 27 trạm quan trắc tài nguyên nước mặt (đạt khoảng 48% so với quy hoạch); 52 trạm, 469 điểm, 983 công trình quan trắc tài nguyên nước dưới đất (đạt khoảng 73% số trạm, 60% số điểm và 63% số công trình so với quy hoạch). Ðồng thời, cần đổi mới cơ chế, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; tăng cường năng lực, bao gồm cả tổ chức, bộ máy, cơ sở vật chất, công cụ kỹ thuật, thông tin cho các cơ quan quản lý chuyên ngành về tài nguyên nước từ trung ương đến các cấp ở địa phương.