Phóng viên:Thưa ông, tại sao thời điểm này Việt Nam đặt ra vấn đề quy hoạch tài nguyên nước quốc gia?
Cục trưởng Châu Trần Vĩnh:
Kể từ khi Luật tài nguyên nước 2012 được ban hành đã phát huy hiệu lực, hiệu quả về nhiều mặt, tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ, toàn diện trong quản lý, bảo vệ tài nguyên nước trên phạm vi cả nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù, trong khoảng 10 năm chưa có quy hoạch tài nguyên nước nhưng trên cơ sở Luật tài nguyên nước 2012, các chính sách quan trọng được ban hành để giải quyết các vấn đề trong điều hòa, phân bổ nguồn nước; bảo vệ nguồn nước nhu các quy định về lập hành lang bảo vệ nguồn nước, bảo vệ lòng bờ, bãi sông; kiểm soát các hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước; sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả;...đều thực thi khá hiệu quả trong thực tiễn.
Tuy nhiên, thể chế, chính sách hiện nay chưa được tích hợp các quy định về quản lý nước trong một bộ luật về nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện các vấn đề về nước trên cơ sở thống nhất quản lý về tài nguyên nước. Các giải pháp triển khai trong thực tế mặc dù pháp huy hiệu quả nhưng không mang tính đồng bộ, tổng thể và thiếu định hướng, điều này dẫn đến các hiệu quả mang lại chưa cao, đầu tư còn dàn trải, chưa đáp ứng được các yêu cầu cho công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên nước. Bên cạnh đó, các vấn đề trong điều hòa, phân bổ không được định hướng, quy định cụ thể dẫn đến việc các mâu thuẩn trong sử dụng nước ở một số lưu vực sông không được giải quyết, trong đó việc các vấn đề hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ lụt cũng chưa có giải pháp tổng thể.
Vì vậy, sự ra đời của Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia sẽ là vô cùng quan trọng trong thời điểm này. Với việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1622/QĐ-TTg ngày 27 tháng 12 năm 2022 phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, đây là cột mốc quan trọng, đánh dấu quy hoạch ngành quốc gia lần đầu tiên được lập trong lĩnh vực tài nguyên nước, là định hướng điều hòa, phân bổ tài nguyên nước đáp ứng cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021 - 2030) và là một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập các quy hoạch ngành quốc gia có khai thác, sử dụng nước, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh. Lần đầu tiên đã tính toán, công bố tổng thể được tài nguyên nước trên phạm vi cả nước bằng 1 văn bản có tính pháp lý rất cao (tổng lượng nước trung bình nhiều năm trên phạm vi toàn quốc khoảng 935,9 tỷ m3/năm, trong đó: nguồn nước mặt: khoảng 844,4 tỷ m3/năm; nguồn nước dưới đất: khoảng 91,5 tỷ m3/năm) và tính toán nguồn nước theo các lưu vực sông, theo các vùng trên phạm vi cả nước.
Theo đó, Quy hoạch tài nguyên nước cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ như Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường,… đặc biệt là kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Các vấn đề liên quan đến công tác quản lý, điều hòa, phân phối, khai thác, sử dụng cho các mục đích nông nghiệp, công nghiệp, thủy sản, thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn và các hoạt động sản xuất kinh doanh khác; vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia và các nội dung liên quan đến quản lý tổng hợp tài nguyên nước được định hướng tổng thể trong quy hoạch tài nguyên nước, trong đó thể hiện đầy đủ, bao trùm các giải pháp công trình, phi công trình và được xem xét tổng thể trên cơ sở tài nguyên nước theo các lưu vực sông trên phạm vi toàn quốc, hiện trạng, nhu cầu sử dụng nước của các ngành có khai thác, sử dụng nước.
Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh
Phóng viên: Theo ông, bất cập lớn nhất trong quản lý tài nguyên nước thời gian qua là gì?
Cục trưởng Châu Trần Vĩnh:
Tôi cho rằng bất cập lớn nhất là thể chế, chính sách chưa tích hợp các quy định trong một bộ luật về nước gây chồng chéo trong quản lý, phân định thẩm quyền, trách nhiệm của từng bộ, ngành, địa phương. Các vấn đề mang tính liên ngành, liên tỉnh như quy hoạch, phát triển, khôi phục rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn sinh thủy, bảo vệ nguồn nước trong quá trình thực hiện dự án thủy điện, thủy lợi, nuôi trồng thủy sản chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa cơ quan quản lý tài nguyên nước với các cơ quan, bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh.
Ngoài ra, bảo đảm an ninh nước cho sinh hoạt đã và đang là vấn đề lớn cần có cơ chế, chính sách đồng bộ để giải quyết, nâng cao tính chủ động về nguồn nước, bảo đảm an toàn cấp nước cho sinh hoạt và nhu cầu thiết yếu của nhân dân ở mức cao nhất trong mọi tình huống, nhất là đối với các thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM.
Phóng viên: Quy hoạch mới này sẽ góp phần giải quyết vấn đề thiếu nước, khô hạn ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và Tây Nguyên như thế nào?
Cục trưởng Châu Trần Vĩnh:
Một trong những mục tiêu quan trọng đến năm 2030 của quy hoạch là khắc phục hiệu quả tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô ở các lưu vực sông, vùng khó tiếp cận nguồn nước, đặc biệt là Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, vùng xa và các đảo.
Đồng thời với đó là các định hướng lớn trong điều hòa, phân bổ, bảo vệ nguồn nước và khắc phục hậu quả do nước gây ra được thể hiện trên phạm vi quốc gia; các định hướng cho từng vùng, lưu vực sông trong đó có đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và Tây Nguyên trong giải quyết vấn đề thiếu nước, hạn hán, xâm nhập mặn.
Với các giải pháp, định hướng đồng bộ, cùng với quy hoạch tổng hợp các lưu vực sông nếu được triển khai đồng bộ, hiệu quả thì vấn đề hạn hán, thiếu nước ở các vùng trên cơ bản sẽ được giải quyết, giảm thiểu tối đa được thiệt hại do hạn hán, thiếu nước.
Phóng viên: Vấn đề ô nhiễm ở các dòng sông sẽ được xử lý thế nào?
Cục trưởng Châu Trần Vĩnh:
Cũng như đối với hạn hán, thiếu nước như tôi đã nêu ở trên, một mục tiêu quan trọng của quy hoạch là phấn đấu đến năm 2030 thu gom, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra môi trường đạt từ 30% tổng lượng nước thải tại đô thị loại II trở lên và 10% từ đô thị từ loại V trở lên.
Quá trình quản lý, tôi thấy hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều các dòng sông bị suy thoái cạn kiệt như Tô Lịch, Nhuệ, Đáy, Bắc Hưng Hải ở miền Bắc. Có thể nói đây không còn là dòng sông theo đúng nghĩa mà đã trở thành kênh dẫn nước thải. Bên cạnh việc chưa kiểm soát triệt để được các nguồn thải thì vấn đề cốt lõi nằm ở chỗ các dòng sông này không có dòng chảy.
Các công trình điều tiết nước như cống thủy lợi có chế độ vận hành chưa hợp lý dẫn đến chất lượng nguồn nước đã ô nhiễm lại càng suy thoái và không còn chức năng cung cấp nước.
Một nhiệm vụ quan trọng của quy hoạch là cải tạo, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; phục hồi, bảo vệ các khu vực, tầng chứa nước dưới đất bị suy giảm mực nước, ô nhiễm, nhiễm mặn. Trước mắt từ nay đến năm 2025, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ nghiên cứu xây dựng đề án thí điểm xã hội hóa phục hồi sông Nhuệ, sông Đáy, sông Bắc Hưng Hải và Ngũ Huyện Khê trình Chính phủ xem xét, phê duyệt làm căn cứ triển khai.
Trong những năm tới, tình trạng ô nhiễm không chỉ ở các lưu vực sông Đồng Nai, Hồng – Thái Bình mà ở các lưu vực sông trên phạm vi cả nước nếu chúng ta triển khai hiệu quả các giải pháp trong quy hoạch thì các nguồn nước sẽ ngày càng sạch hơn, tình trạng ô nhiễm, suy thoái cạn kiệt sẽ giảm thiểu, ý thức trách nhiệm của người dân và doanh nghiệp sẽ được câng cao và vấn đề ô nhiễm nguồn nước khi đó sẽ được cơ bản giải quyết.
Phóng viên: Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nước biển dâng trên toàn cầu, với quy hoạch này, ông hình dung trong 10 năm tới, tài nguyên nước của Việt Nam sẽ thế nào?
Cục trưởng Châu Trần Vĩnh:
Tài nguyên nước chịu tác động mạnh nhất và trực tiếp nhất trước diễn biến của BĐKH và biểu hiện ngày càng rõ rệt và mạnh mẽ hơn, mùa khô kéo dài, mùa mưa ngắn, các vùng thiếu nước ngày càng rộng trên bản đồ hạn hán của mỗi quốc gia, và diễn biến ngày càng phức tạp, khó kiểm soát. Xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng cực đoan liên quan đến nước.
Trong quá trình lập quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, các kịch bản nguồn nước đã dự báo, tính đến các tác động của biến đổi khí hậu, cũng như đề xuất các định hướng giải pháp điều hòa, phân bổ tổng thể quốc gia, theo các vùng kinh tế, theo các lưu vực sông trong trường hợp hạn hán, thiếu nước xảy ra, để làm cơ sở cho quy hoạch lập quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh cũng như quy hoạch tổng hợp lưu vực sông.
Trong 10 năm tới, diễn biến tài nguyên nước vẫn là vấn đề hết sức phức tạp và khó lường, tuy nhiên, nếu xét ở góc độ tích cực và nếu như chúng ta triển khai đồng bộ các giải pháp như quy hoạch tài nguyên nước đã nêu cùng với Hệ thống pháp luật về tài nguyên nước được thực thi một các hiệu lực, hiệu quả thì sẽ giải quyết được căn cơ những thách thức đối với tài nguyên nước như: (i) Giảm sự phục thuộc vào nguồn nước liên quốc gia, chúng ta sẽ chủ động hơn về nguồn nước trong các tình huống bất lợi; (ii) An ninh nguồn nước của nước ta được nâng cao hơn, nâng cao khả năng người dân tiếp cận các nguồn nước sạch, an toàn; (iii) Các nguồn nước được bảo vệ theo đúng ý nghĩa coi nước là tài sản quốc gia, nhiều dòng sông bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm sẽ được phục hồi như sông Tô Lịch, Nhuệ, Đáy, sông Bắc Hưng Hải,….(iv) Nước được tính đúng, tính đủ giá trị sử dụng nước nhằm bảo đảm giá trị tài sản công, nâng cao nhận thức, tăng cường việc sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; giảm thất thoát, lãng phí nước và tránh thất thu ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, các đối tượng thụ hưởng từ hoạt động bảo vệ nguồn sinh thủy một cách hợp lý để khuyến khích quản lý, bảo vệ, phát triển rừng.
Và, hi vọng rằng các mục tiêu của quy hoạch tài nguyên nước quốc gia đến năm 2030 như trong Quyết định số 1622/QĐ-TTg về cơ bản sẽ được hoàn thành. Đây là kỳ vọng hết sức lớn của Bộ Tài nguyên và Môi trường và của lĩnh vực nước của chúng tôi.
Phóng viên: Thách thức lớn nhất khi triển khai quy hoạch này là gì?
Cục trưởng Châu Trần Vĩnh:
Thách thức lớn nhất là tổ chức thực hiện, đòi hỏi không chỉ Bộ Tài nguyên và Môi trường mà các bộ, ngành, địa phương phải thực hiện các giải pháp đồng bộ đã được thể hiện trong quy hoạch tài nguyên nước quốc gia.
Vấn đề nguồn lực để triển khai cũng là mấu chốt. Với nguồn lực của quốc gia rất hạn chế như hiện nay thì việc Nhà nước nghiên cứu bố trí nguồn lực hợp lý, phù hợp với các giai đoạn, vấn đề ưu tiên thể hiện trong quy hoạch là rất quan trọng.
Về phía Bộ, khi xây dựng quy hoạch chịu nhiều áp lực. Theo Khoản 5 Điều 3 Luật Quy hoạch thì quy hoạch tài nguyên nước là cụ thể hóa cho quy hoạch tổng thể quốc gia. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 751/2019 về vấn đề này, tuy nhiên trong quá trình lập thì quy hoạch tổng thể quốc gia chưa được ban hành nên gặp những khó khăn nhất định.
Việc chồng lấn đối tượng quản lý giữa Luật Tài nguyên nước và Luật Thủy lợi và một số quy định trong các luật có liên quan đã phần nào gây khó khăn trong việc định hướng, đưa ra giải pháp quản lý, nhất là trong bối cảnh đây là quy hoạch đi tiên phong trong hệ thống quy hoạch ngành quốc gia.
Xin cảm ơn ông!