Trang nhất » Tin tức - Sự kiện » Hoạt động của Cục - Tin liên quan

Tọa đàm “Tài nguyên nước và vấn đề quản lý, khai thác, sử dụng nước sạch”

Thứ hai - 18/10/2021 16:46
Các đại biểu tại buổi tọa đàm

Các đại biểu tại buổi tọa đàm

Với quan điểm “nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước”, Việt Nam luôn nỗ lực tăng cường và kiện toàn, thể chế, chính sách trong lĩnh vực tài nguyên nước; đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia có chung nguồn nước; khai thác, sử dụng nguồn nước sạch hợp lý nhằm góp phần vào tiến trình phát triển bền vững của đất nước.

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến năm 2025, lượng nước mặt bình quân đầu người ở Việt Nam chỉ đạt 2.830 m3/người/năm, thiếu so tiêu chuẩn thế giới là 4.000 m3/người/năm. Và nếu không có những chính sách hữu hiệu trong vòng 50 năm nữa, Việt Nam sẽ bị thiếu nước trầm trọng. Tình trạng khô kiệt sẽ diễn ra trên diện rộng, ngày càng nhiều người dân phải sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người sử dụng và kéo theo hàng loạt hệ lụy khác.
 
Tìm các giải pháp quản lý, sử dụng, khai thác nước sạch theo phương thức tổng hợp và toàn diện, phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao nhận thức của người dân về sử dụng nước sạch, Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức Tọa đàm “Tài nguyên nước và vấn đề quản lý, khai thác, sử dụng nước sạch”.


Các đại biểu tại buổi tọa đàm
 
Tọa đàm mong muốn nhận được các ý kiến chia sẻ của các Đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý về những thách thức về Việt Nam đang phải đối mặt về suy giảm nguồn nước, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm quản lý bền vững và hiệu quả các hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên nước, nâng cao việc chấp hành pháp luật trong việc bảo vệ nguồn nước, phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.

Khách mời tham gia Tọa đàm có:
 
- Ông Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội;
 
- Bà Nguyễn Thị Kim Anh, Ủy viên thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội;
 
- Ông Nguyễn Quang Huân, Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Halcom Việt Nam
 
- Ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường
 
- TS Nguyễn Linh Ngọc, Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
 
- TSKH Nghiêm Vũ Khải, Đại biểu Quốc hội Khoá XI, XII, XIV, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội
 
(14:40 18/10/2021)
 
Suy giảm nguồn nước sạch - nguy cơ không thể xem thường
 
Tình trạng suy kiệt nguồn nước cả trên bề mặt và nước dưới đất ở nhiều vùng đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Ngoài nguyên nhân khách quan do diễn biến theo quy luật tự nhiên, do điều kiện khí hậu, thủy văn, do tác động của biến đổi khí hậu, còn do tác động của con người khai thác vào các mục đích kinh tế khác nhau, sử dụng lãng phí, gây ô nhiễm, kiểm soát xả thải ra môi trường chưa được kiểm soát tốt... khiến nguồn nước suy giảm, nước sạch đang ngày càng khan hiếm. 
 
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, hiện nay, hơn 70% lượng nước ở các sông trên toàn quốc không thể dùng để ăn uống hay tắm rửa. Tình trạng khan hiếm nước sạch nghiêm trọng xảy ra không chỉ ở các khu vực thành thị như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh mà còn khắp các vùng nông thôn ở Tây Nguyên, vùng biển, thậm chí, vùng sông nước như ở đồng bằng sông Cửu Long, do tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn. Dự báo của Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng, nếu không giải quyết được tình trạng ô nhiễm này, trong 10 năm tới, Việt Nam không chỉ thiếu nước sạch để sử dụng mà còn phải mua nước với giá cao và mất đến 4% GDP vào năm 2035.
 
(14:55 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Nước sạch và vệ sinh môi trường là lĩnh vực luôn được ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để ứng phó vơi tình trạng suy giảm nguồn nước, nguy cơ thiếu nước sạch, cần tập trung vào những vấn đề gì, thưa ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường?
 
Ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường:
 
Trong khoảng 30 năm gần đây, tài nguyên nước của Việt nam đang đối mặt với vấn đề thiếu nước so với thế giới. Với mức bình quân dưới mức bình quân của thế giới, chỉ khoảng 4000m3/người/năm. Và thực trạng thiếu nước cũng xảy ra ở nhiều nơi. Các số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy nguồn tài nguyên này đang rất thiếu và chịu ảnh hưởng bởi bên ngoài rất nhiều, có đến 63% trữ lượng nguồn nước là nước ngoại sinh.


Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Khuyến chia sẻ tại tọa đàm
 
Nguồn nước cũng phân bố không đều theo không gian và thời gian. Về thời gian, từ tháng 6-9 lượng nước thu lại chỉ 20-30%. Về không gian, từ miền Bắc cho tới TP. Hồ Chí Minh, nước chỉ chiếm khoảng 40% nhưng GDP và dân số chiếm tới 80%. Trong khi đó, tài nguyên nước tại đồng bằng sông Cửu Long chiếm tới 60%.
 
Ngoài ra, hiệu quả sử dụng nước rất thấp, thất thoát khoảng 25% và các công trình thủy lợi hiệu quả chỉ đạt 50-90% so với năng lực thiết kế. Dưới áp lực kinh tế - xã hội, dân số tăng, ô nhiễm nguồn nước tại các đô thị, khu công nghiệp, lượng nước thiếu so với nhu cầu khoảng 20-30%. Đến năm 2030 sẽ thiếu khoảng hơn 32%. Nhu cầu sử dụng nước trong 30 năm trở lại đây đã tăng lên gấp 3 lần.
 
Khả năng tiếp cận nước sạch và nước an toàn của Việt Nam rất thấp. Có tới 8% các doanh nghiệp sử dụng tài nguyên nước gặp sự cố về nước. Đơn cử như tại Nhà máy nước Sông Đà gặp khó khăn nhiều trong việc tiếp cận nguồn nước.
 
Tác động của biến đổi khí hậu đến quá sớm, nước biển dâng, tỷ lệ che phủ rừng cũng giảm đi nhiều trong khi hệ thống quản trị nước còn nhiều bất cập. Chưa có sự thống nhất nên hiệu quả quản lý quản trị chưa cao.
 
(15:07 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng: Ô nhiễm nguồn nước, suy thoái nguồn nước sạch đang là thách thức lớn cho toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ góc nhìn của ông Nguyễn Quang Huân, ĐBQH, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, theo ông thách thức suy giảm nguồn nước sạch có thể sử dụng được sẽ tác động đến chúng ta như thế nào?
 
Ông Nguyễn Quang Huân, Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Halcom Việt Nam:
 
Theo định nghĩa Ngân hàng thế giới hay Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác, an ninh nguồn nước bao gồm: Thứ nhất, phải đảm bảo trữ lượng nguồn nước từ đầu nguồn. Thứ hai, phải đảm bảo sử dụng nước một cách hiệu quả, công bằng với mọi đối tượng. Thứ ba, phải phòng tránh ô nhiễm. Nếu ba vấn đề trên chúng ta đều làm tốt thì an ninh nguồn nước cơ bản được đảm bảo.
 
Về trữ lượng nước, như ông Nguyễn Minh Khuyến đã nói, chúng ta phải chấp nhận rủi ro có đến 63% trữ lượng là nước ngoại sinh. Về nước nội sinh chỉ có hơn 37%, tức là khoảng 320 tỷ m3, nước ngầm chỉ có 63 tỷ m3/năm. Mà lượng nước ngầm là tài nguyên vô cùng quý giá mà chúng ta phải dự trữ, trong trường hợp có thiên tai, hiểm họa tự nhiên, chiến tranh khiến không thể tiếp cận với nguồn nước mặt thì nước ngầm sẽ trở nên cực kỳ quý giá. Nếu khai thác một cách bừa bãi sẽ ảnh hưởng đến chất lượng các tầng nước ngầm và nguy cơ ô nhiễm sẽ càng ngày càng cao. Việc phục hồi lại tầng nước ngầm sẽ tốn rất nhiều thời gian, có khi đến hàng trăm năm, vì vậy phải hết sức lưu giữ và bảo quản. Còn về 37% trữ lượng nước nội sinh thì nằm trên các con sông và phân bổ không đều, dẫn tới trong mùa hạn khi chúng ta cần sử dụng đến nước nội sinh sẽ là một bài toán nan giải cho các nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
 
Việc sử dụng nguồn nước một cách hiệu quả, công bằng với mọi đối tượng. Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, giá trị gia tăng của một mét khối nước tại Việt Nam đang rất thấp. Theo số liệu của Bộ, chúng ta mới chỉ đạt 0,37$/m3 nước, chỉ bằng ¼ so với Trung Quốc, Nhật Bản... Còn theo số liệu của thế giới thì cả nền kinh tế của chúng ta chỉ đạt 2,37$/m3 nước, bằng 1/8 so với mặt bằng chung của thế giới. Có thể thấy hiệu quả sử dụng nước của chúng ta là rất thấp. Vì vậy, cần nghiên cứu để đưa ra lộ trình cải thiện điều này. Vì chúng ta không chỉ sử dụng nước cho người dân mà còn sử dụng cho cả nền kinh tế. Hiện 83-85% nước được sử dụng cho ngành nông nghiệp, nếu đạt giá trị gia tăng thấp thì hiệu quả của tài nguyên nước cũng bị thấp đi. Trong khi nước sinh hoạt chúng ta chỉ sử dụng khoảng 3%, công nghiệp khoảng 5% còn lại là thủy sản và phi nông nghiệp. Nếu không thay đổi, thì dù là quốc gia có nhiều sông ngòi thì vẫn sẽ thiếu nước.
 
Một yếu tố cần quan tâm khác là mỗi ngày có khoảng 60 nghìn tấn rác thải cần xử lý, một năm có khoảng 22 triệu tấn rác. Trong khi đó, việc xử lý rác thải không đáng kể, chúng ta mới chỉ thu gom, xử lý rất hạn chế, từ rác thải sẽ ô nhiễm sang nguồn nước ngầm. Theo số liệu của Bộ Xây dựng, hiện chỉ có 12-14% nước thải được xử lý, còn lại thì không xử lý mà đổ ra sông hồ. Mỗi ngày 3 tỷ m3 nước thải không được xử lý. Ngoài ra còn một nguồn ô nhiễm nước cực kỳ nghiêm trọng nữa là ô nhiễm từ sản xuất nông nghiệp. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, chỉ có khoảng 50% lượng phân bón, thuốc trừ sâu được dùng cho cây trồng nông nghiệp, còn lại là bị xả trôi do mưa lũ hoặc do phương pháp tưới của chúng ta. Còn theo số liệu của của Viện Khoa học nguyên tử, thì số liệu thuốc bị rửa trôi có thể lên đến 70%.
 
Có thể nói rằng, chúng ta sử dụng nguồn nước không hiệu quả, chưa có cơ chế bảo vệ rõ ràng nguồn nước sạch để sử dụng lâu dài. Ngoài ra, hàng năm chúng ta đang lãng phí 1-2% GDP để phòng chống thiên tai thảm họa, nếu như đảm bảo được an ninh nguồn nước thì chúng ta còn có thể xử lý được vấn đề này, từ đó giúp chúng ta tránh được việc thiếu nước sạch.
 
(15:15 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Thực tế, sự phân bố nguồn nước không đồng đều trên cả nước đã dẫn đến tình trạng thiếu nước theo mùa ở nhiều nơi. Thưa TS Nguyễn Linh Ngọc, Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, theo ông cần có kịch bản cụ thể cho từng vùng thế nào trong trường hợp thiếu nước sạch phục vụ sinh hoạt và sản xuất?
 
TS Nguyễn Linh Ngọc, Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường:
 
Việt Nam là một đất nước trải dài, hẹp ngang, độ dốc từ Tây sang Đông, có những vùng lại thuộc đới khô... nên nguồn nước ở từng vùng, từng diện tích, từng khu vực có sự phân bổ khác nhau. Cụ thể, vùng cao như Hà Giang thiếu nước cũng là một vấn đề do yếu tố địa hình. Phía đồng bằng, nhiều nước hơn nhưng lại tập trung dân cư nhiều hơn, ô nhiễm nhiều hơn. Ở phía Nam có đới khí hậu khô, bản chất đã thiếu nước, đồng bằng sông Cửu Long cũng xâm ngập mặn... Như vậy, thực chất Việt Nam rất thiếu nước chứ không phải nhiều nước như mọi người vẫn nghĩ.


Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam TS Nguyễn Linh Ngọc chia sẻ tại tọa đàm
 
Vậy giải pháp cho vấn đề này như thế nào? Theo tôi, để bảo quản nguồn nước tốt, mỗi vùng cần có một giải pháp cụ thể. Ngoài nước tự nhiên, nước chảy tràn, nguyên tắc chúng ta phải giữ được nước, đến mùa cạn phải tái sử dụng được. Để làm được điều này, chúng ta cần phải tăng cường công tác điều tra cơ bản (địa chất thủy văn) để đưa ra nguồn nước nhân tạo ra sử dụng. Bên cạnh đó, chúng ta phải chia ra các vùng, không phải vùng nào cũng đều có một chiến lược, mà mỗi vùng phải có chế độ sử dụng nước khác nhau. Ví dụ như ở miền núi phía Bắc như Hà Giang, thì chúng ta phải có chiến lược riêng; hay đồng bằng vùng Ninh Thuận, Bình Thuận- một vùng đới khô sa mạc thì các nhà khoa học phải vào cuộc nghiên cứu xem vùng này cây trồng gì phù hợp để có thể giúp bảo quản, bảo tồn nguồn nước, có thể tái sử dụng nước vào mùa khô như thế nào.
 
Tương tự, đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng vậy, hàng năm  xảy ra tình trạng nước xâm ngập mặn, vậy câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể sử dụng nguồn nước mặn đó hay không, hay không sử dung được? Có nên đắp đê để ngăn xâm mặn không? Tôi cho rằng, không thể đắp đê mãi được mà phải có biện pháp thay đổi cây trồng vật nuôi. Nguồn nước ở đây cũng phải nghiên cứu để có giải pháp. Để sử dụng và bảo đảm quản lý nguồn nước an toàn, hiệu quả, Bộ Tài nguyên và Môi trường nên phân loại, phân vùng khác nhau để đưa ra các đề án để bảo vệ, bảo quản nguồn nước.
 
(15:18 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Từ ý kiến của TS Nguyễn Linh Ngọc, thưa ông Nghiêm Vũ Khải, ông có thêm ý kiến chia sẻ gì về vấn đề này?
 
TSKH Nghiêm Vũ Khải, Đại biểu Quốc hội Khoá XI, XII, XIV, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội:
 
Một số diễn giả cho rằng chúng ta thiếu nước một cách tự nhiên, khi nước ta nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa với lượng mưa 2.000- 2.500mm. Năm 2009, Đại sứ Israel chia sẻ về việc ao ước một năm chỉ cần có lượng mưa như Hà Nội mà không có. Do đó, không thể nói là nước ta thiếu nước.


Đại biểu Quốc hội Khoá XI, XII, XIV, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội TSKH Nghiêm Vũ Khải chia sẻ tại tọa đàm
 
Chúng ta có 63% nguồn nước từ tự nhiên đó là sông ngòi. Tôi cho rằng, việc phá rừng là cái sai lầm đầu tiên làm cho nước chúng ta kiệt quệ về nguồn nước. Ở miền Bắc, một cơn mưa 3-4 tiếng sau nước ngấm vào các tầng đá, lớp cỏ thực vật... 3-4 tiếng sau nước mới chảy ra suối nên mới có nước ngầm. Việc chúng ta gây ô nhiễm nguồn nước đã khiến 70% nguồn nước chúng ta không dùng được. Thay vì than vãn chúng ta hay tìm ra giải pháp để khắc phục.
 
(15:30 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Định hướng của Chính phủ là hạn chế khai thác nước dưới đất do nguồn nước này đang ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt và dần chuyển hướng sang khai thác nước mặt. Trong khi đó, nhiều lưu vực sông trong cả nước đang ô nhiễm. Vậy dưới góc nhìn của cơ quan xây dựng chính sách, thưa bà Nguyễn Thị Kim Anh, Ủy viên thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cần có kế hoạch phân bổ nguồn nước mặt và nước ngầm như thế nào để sử dụng hợp lý, bảo vệ nguồn nước hiệu quả?
 
Bà Nguyễn Thị Kim Anh, Ủy viên thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội:
 
Nếu không có ý thức bảo vệ nguồn nước, sử dụng nước hợp lý, có trách nhiệm thì sẽ dẫn đến thiếu nước. Cũng như khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, đến một thời gian nhất định, chúng ta sẽ phải đi mua nước. Nước có tầm quan trong trong mọi mặt của đời sống sinh hoạt cũng như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…


Ủy viên thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thị Kim Anh chia sẻ tại tọa đàm
 
Chúng tôi với tư cách là cơ quan thẩm tra cũng như cơ quan của Quốc hội về lĩnh vực công nghệ - môi trường, trong đó có tài nguyên nước, chúng tôi thấy rằng định hướng của Chính phủ về hạn chế khai thác nước ngầm là hoàn toàn đúng đắn, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Việc quản lý, khai thác phải đảm bảo, gắn với mục tiêu an ninh nguồn nước và phát triển bền vững, phân bổ tài nguyên nước phải xem trong tổng thể quy hoạch tài nguyên nước, trong đó nguồn cấp nước sinh hoạt phải được ưu tiên hàng đầu và hài hòa lợi ích giữa các ngành kinh tế cũng như môi trường sinh thái.
 
Kịch bản phân bổ tài nguyên nước trong trường hợp cực đoan tiêu cực cũng cần được xem xét. Như trong bối cảnh dịch Covid-19 cũng phải có từng kịch bản riêng. Trong những loại hình an ninh phi truyền thống, thì an ninh nước là loại hình cần phải được nhấn mạnh. Tất cả hệ thống chính trị phải vào cuộc nhằm nâng cao ý thức việc bảo vệ, sử dụng, khai thác nguồn nước có trách nhiệm.
 
Các quy hoạch của các Bộ, ngành và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương có sử dụng tài nguyên nước phải rà soát gắn với tài nguyên nước, bảo vệ, duy trì dòng chảy tối thiếu trên sông, không vượt quá ngưỡng khai thác đối với các tầng chứa nước, sử dụng nước tổng hợp, đạt mục tiêu hợp lý, hài hòa lợi ích, bình đẳng quyền lợi và nghĩa vụ giữa các tổ chức cá nhân.
 
Ngoài ra, tôi cho rằng, cần phải xây dựng chiến lược khai thác nguồn nước hài hòa với nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm. Triển khai các giải pháp bổ sung nguồn nước mặt thay thế cho nước ngầm, phục vụ sinh hoạt, sản xuất vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, đồng bằng sông Hồng. Tôi cũng nhấn mạnh việc phải sử dụng nước tuần hoàn, ví dụ nước sinh hoạt tái tạo để tiếp tục sử dụng cho lĩnh vực khác.
 
Đặc biệt, cần rà soát tổng thể về nước ngầm cho thấy đã đến mức phải cảnh báo hay chưa, từ đó xác định ngưỡng khai thác nguồn nước ngầm. Kiểm soát, hạn chế khai thác nguồn nước ngầm cũng như chống ô nhiễm nước ngầm. Phải bảo vệ, phát triển rừng, đó là nơi tạo ra và giữ nguồn nước ngầm bền vững nhất.
 
(15:45 18/10/2021)
 
Điều tra, kiểm kê tài nguyên nước để nâng cao giá trị, hiệu quả sử dụng nước sạch
 
Ngày 24.3.2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 432/QĐ- TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tiếp đó, ngày 4.8.2021, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành ký Quyết định 1383/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia, giai đoạn đến năm 2025. Từ kết quả điều tra cơ bản tài nguyên nước quốc gia, kiểm kê việc khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước; đây sẽ là cơ sở để đánh giá được tài nguyên nước hiện có bao nhiêu, phân bố thế nào, đang khai thác ra sao, những vấn đề gì bất cập; các cơ quan quản lý mới tính toán được các phương án khai thác, sử dụng hợp lý, ổn định và đưa ra được giải pháp bảo vệ nguồn nước sạch bền vững, lâu dài.
 
(16:04 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Có thể nói rằng, việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước và Đề án tổng kiểm kê tài nguyên nước là bước đột phá, là cơ sở để đánh giá lại việc khai thác và sử dụng nguồn nước sinh hoạt cho hiệu quả hơn. Đứng trước những yêu cầu, đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang triển khai các kế hoạch thực hiện nhiệm vụ như thế nào, thưa ông Nguyễn Minh Khuyến?
 
Ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường:
 
Căn cứ vào đặc điểm tình hình, nhu cầu phát triển của đất nước cũng như bối cảnh chung của thế giới, đối với khu vực nào mà chúng ta cần phát triển thì cần ưu tiên điều tra trước. Cũng căn cứ vào sơ đồ phát triển này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu và trình Chính phủ Đề án Kiểm kê tài nguyên nước quốc gia đến năm 2030 và đặt tầm nhìn 2050.
 
Trước đây, kiểm kê sẽ được thực hiện 3 năm 1 lần theo Luật kiểm kê, tuy nhiên trong quá trình thực hiện, chúng ta nhận thấy kiểm kê tài nguyên nước không phải là một nhiệm vụ dễ và tới hơn 17 năm đề án này mới được Chính phủ phê duyệt. Theo đánh giá, đề án này cũng cần một nguồn lực tương đối lớn, theo Quyết định số 1383 của Chính phủ phê duyệt đề án này thì đến năm 2025, Việt Nam sẽ có một bộ chỉ số về tài nguyên nước và đây là bộ chỉ số được công bố lần đầu. Tài nguyên nước được coi là tài sản công, theo Điều 53 của Hiến pháp thì tài nguyên này cần được quản lý theo Luật Tài sản công.
 
Đề án sẽ có đầy đủ những thông tin về mùa kiệt, tháng kiệt… Cũng theo ý kiến của các chuyên gia, chúng ta thiếu vào những tháng mùa khô chứ tổng lượng nước cả năm không thiếu. Như Israel, họ có nhà máy xử lý 600.000m3/ngày đủ cho nền kinh tế của họ, và công nghệ của họ có thể tái chế tới 80% lượng nước. Còn với Việt Nam, chúng ta mới chỉ đặt mục tiêu xử lý 20-30% vào năm 2030 và còn rất nhiều rủi ro. Chính vì thế ta phải cụ thể hóa kế hoạch sử dụng cho phù hợp với các nhu cầu.
 
Để đạt được những kết quả này cũng cần sự phối hợp của các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là các bộ sử dụng nhiều tài nguyên nước như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông, Vận tải. Các bộ này cũng sẽ cam kết tham gia vào đề án kiểm kê này. Và với sự phối hợp đó, hy vọng chúng ta sẽ có bức tranh toàn diện về tài nguyên nước.

(16:05 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Ước tính trung bình có khoảng 80% lượng nước cấp cho sinh hoạt trở thành nước thải sinh hoạt, nhưng tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý chỉ mới đạt khoảng 10 - 11% trên tổng số lượng nước thải đô thị. Thưa TSKH Nghiêm Vũ Khải, theo ông khi triển khai các hoạt động điều tra, kiểm kê tài nguyên nước cần chú trọng điều gì để giám sát, đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của nguồn nước các lưu vực sông chính, hạn chế ô nhiễm nguồn nước?
 
TSKH Nghiêm Vũ Khải, Đại biểu Quốc hội Khoá XI, XII, XIV, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội:
 
Trong hoạt động quản lý nhà nước, sau nhiệm vụ quan trọng về xây dựng thể chế thì công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng một cách hiệu quả nguồn nước cũng đóng vai trò cực kì quan trọng. Để làm tốt điều này thì công tác điều tra, kiểm kê vô cùng quan trọng, trở thành cơ sở để thực hiện quy hoạch, lên kế hoạch sau này. Bên cạnh đó, việc các cơ sở, địa phương đã có phần đánh giá tổng kết được xem là thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài để phục vụ mục đích sản xuất, sinh hoạt, đời sống thì rõ ràng chúng ta phải đánh giá một cách căn bản.

 
Ví dụ, chúng ta phải đánh giá trong không gian, vùng, địa lý khác nhau, vĩ độ khác nhau, thời gian mùa khô như thế nào, đánh giá đặc điểm trữ lượng ra sao, chất lượng, đặc điểm hóa lý, chất lượng dòng chảy, những vấn đề quan hệ quốc tế về những dòng sông chảy xuyên các quốc gia để có thông số một cách chính xác. Khi chúng ta nắm rõ được các thông số, chúng ta mới có quy hoạch, kế hoạch lâu dài, thích ứng với từng thời gian.
 
Tôi thấy rằng đây là việc rất khó khăn. Bởi lẽ, ở Việt Nam chúng ta đưa ra rất nhiều kế hoạch nhưng không có đủ tiềm lực, nguồn lực để thực hiện. Bên cạnh đó, việc chúng ta điều tra sai thì sẽ dẫn đến việc đưa ra nhưng quy hoạch, kế hoạch sai. Vì vậy, chúng ta phải có những cách tiếp cận khác nhau. Cán bộ, nhà quản lý, người dân phải nghiên cứu ra các giải phải chứ không thể phụ thuộc vào thiên nhiên.
 
Thế kỉ XXI không phải là chiến tranh dầu mỏ mà là chiến tranh về nguồn nước để bảo đảm việc sản xuất kinh doanh một cách bền vững, phục vụ đời sống cho người dân. Các đại biểu Quốc hội cần mạnh dạn đề nghị xây dựng nguồn nhân lực, có những chính sách động viên, khuyến khích để có nguồn nước hợp vệ sinh, bảo vệ môi trường giống như nước Israel 70%, 80% có khi 90% nguồn nước là từ tái chế. Để làm được điều đó, chúng ta phải áp dụng công nghệ tốt và có sự tham gia của cả hệ thống chính trị.
 
(16:10 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Thưa ông Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội, theo ông, việc đầu tư cho các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước cần triển khai ra sao để bảo đảm tính trọng tâm, trọng điểm, vừa khuyến khích các thành phần của xã hội tham gia vào công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng nước sạch?
 
Ông Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội :
 
Tôi cho rằng bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay đang đặt ra rất nhiều vấn đề, như biến đổi khí hậu, nguồn nước... trong khi nguồn nước dân sinh chỉ đạt 50%. Đất, nước và không khí là 3 cụm thành tố đi cùng với nhau cấu thành sự tồn tại. Điểm đầu tiên, cần thiết phải có chương trình đánh giá, điều tra xác định nước là yếu tố quan trọng và tôi mong muốn chương trình này gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội.

Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội Nguyễn Lâm Thành chia sẻ tại tọa đàm
 
Thứ hai, về nội dung điều tra, trước tiên phải điều tra về nguồn nước, hết sức chú ý đến vùng khô hạn, đặc trưng về khí hậu như Ninh Thuận, Bình Thuận; vùng đặc trưng về địa hình như Hà Giang, hay một số địa phương vùng cao, miền núi.
 
Thứ 3, khu vực Tây Nguyên hiện đang đối mặt với vấn đề về nguồn nước hết sức nghiêm trọng, đặc biệt là tầng nước ngầm so chính tác động của con người đến môi trường tự nhiên. Các vùng này được ưu tiên điều tra, đặc biệt là vùng gắn với đời sống người dân, nhu cầu sử dụng không chỉ là nước sinh hoạt. Tôi cho rằng đấy chính là vấn đề cốt lõi, những vùng trọng tâm, trọng điểm.
 
Bên cạnh đó cần có đánh giá hệ thống quan trắc đo lường chất lượng nước. Về giải pháp về những vấn đề này, thứ nhất, phải gắn với quy hoạch phát triển. Trước khi chúng ta đưa ra quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khu đô thị, khu công nghiệp phải đánh giá rất kỹ về nguồn nước, phải trở thành chỉ tiêu cụ thể. Tôi cũng đồng ý với quan điểm của bà Kim Anh về sử dụng tuần hoàn nước. Trên thực tế đồng bào vùng cao Hà Giang, Cao Bằng đã làm từ lâu, đến bây giờ chúng ta đưa thành vấn đề vĩ mô trong đời sống. Tuy nhiên để thực hiện tốt việc điều tra, phải tiến hành xây dựng, kinh tế hoá cơ sở dữ liệu. Muốn có cơ sở dữ liệu tốt, ngân sách Nhà nước không thể bảo đảm được mà cần xã hội hoá, lượng hoá kinh tế các hoạt động trên nguyên tắc người nào dùng thì phải trả tiền.
 
Bên cạnh việc tuần hoàn sử dụng nước là khép kín quản lý để có giải pháp tốt hơn. Cùng với đó, là tăng cường đầu tư trọng điểm trạm quan sát, trung tâm điều tra, nghiên cứu. Quan điểm của tôi là chúng ta mới làm hệ thống hồ treo, nhưng còn một giải pháp rất quan trọng là phục hồi rừng. Bài toán nước của Hà Giang chính là vấn đề về rừng và người dân hoàn toàn tham gia được vào quá trình phục hồi rừng. Tuy nhiên mật độ mỗi vùng mỗi khác nhưng vẫn có hệ thực vật tự nhiên, ở đó chúng ta nên phục hồi lại, khi nâng độ che phủ rừng lên, chúng ta sẽ có tầng giữ nước và quan trọng nhất là phải chú tâm vào bài toán kinh tế.
 
(16:17 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Thực hiện các hoạt động điều tra, kiểm kê tài nguyên nước cũng chính là tiền đề đề ra các biện pháp tăng cường quản lý, nâng cao giá trị, hiệu quả sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước. Để thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững trong sản xuất và đời sống “Đảm bảo nguồn cung cấp và quản lý bền vững tài nguyên nước và các điều kiện vệ sinh an toàn cho tất cả mọi người” (SDG6) đến năm 2030, theo bà chúng ta cần kế hoạch hành động như thế nào, thưa bà Nguyễn Thị Kim Anh?
 
Bà Nguyễn Thị Kim Anh, Ủy viên thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội:
 
Để nâng cao giá trị, hiệu quả sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước, đầu tiên, tôi cho rằng cần có giải pháp về xây dựng tài nguyên nước tầm nhìn dài hạn, hài hòa với điều kiện tự nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, hoặc khai thác hiệu quả với nguồn nước bên ngoài lãnh thổ, bảo đảm cấp nước sạch cho sinh hoạt, ưu tiên cấp nước hợp vệ sinh cho khu vực hay xảy ra thiên tai, vùng khó khăn, vùng nguồn nước ô nhiễm.

 
Thứ hai, cần tiếp tục hoàn thiện và thực thi có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước, đặc biệt là Luật Tài nguyên nước 2012. Việc ban hành văn bản là việc đầu tiên để hoàn thiện thể chế, thực thi văn bản này để làm sao thực hiện có hiệu quả, đó là trách nhiệm của tất cả các cơ quan đến từng người dân. Hiện tại, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên nước cũng như các luật quản lý tài nguyên nước nói chung. Chúng tôi đề nghị sớm nhanh chóng hoàn thiện hồ sơ, từ đó đề xuất Ủy ban Thường vụ Quốc hội đưa vào chương trình xây dựng pháp lệnh.
 
Thứ ba, như ý kiến các chuyên gia đã nói, bên cạnh nguồn lực Nhà nước là chủ đạo, ưu tiên cho sử dụng nước, thì phải có sự đẩy mạnh cũng như tạo điều kiện, khuyến khích để cho các tổ chức, thành phần kinh tế hỗ trợ, đầu tư phát triển đối với lĩnh vực nước. Hay nói cách khác, là xã hội hóa công tác này. Để từ đó giúp cho tổ chức, cá nhân, các nguồn lực mạnh lên.
 
Để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào quản trị nước, một trong những vấn đề Nhà nước có thể làm được ngay đó là đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy trình cũng như mở rộng đối tượng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư để các tổ chức cá nhân có mong muốn hỗ trợ đầu tư lĩnh vực này thì có thể tham gia được. Trong đó, xác định nước là hàng hóa thiết yếu cần được quản lý, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Xây dựng cơ chế đóng góp của người dân khi tham gia đấu nối, sử dụng nước đảm bảo công bằng, minh bạch và nâng cao ý thức cộng đồng.
 
Thứ tư, cần tập trung phát triển hạ tầng để khai thác, sử dụng nước bền vững, đồng bộ như nâng cao năng lực của hệ thống hạ tầng khai thác trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ. Ví dụ như Isarel, không phải là đất nước dồi dào nguồn nước, nhưng họ lại chủ động được nguồn nước. Chuyển đổi số rất quan trọng, nơi có nước và nơi không có nước phải điều tiết như thế nào để phù hợp. Sử dụng, khai thác nước phải phù hợp, ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu.
 
Thứ năm, cần đầu tư xây dựng các công trình chứa nước. Một trong những nơi chứa nước đó là ao hồ công trình thủy lợi, phải có giải pháp chủ động tích trữ nước khi các công trình này xuống cấp. Có thời kỳ phát triển công nghiệp, các công trình nhà ở, khu công nghiệp đã phá vỡ đầm, ao, hồ. Phải có quy hoạch để hài hòa tất cả các ngành nghề để có hệ thống công trình tích trữ, chủ động được về nguồn nước. Chuyển nước từ nơi thừa sang thiếu, tạo nguồn nước sạch ổn định cho các vùng thường xuyên bị ảnh hưởng thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước….
 
Thứ sáu, cần thu hút nguồn lực xã hội, huy động sự tham gia, giám sát của cộng đồng trong bảo vệ nguồn nước, đầu tư, xây dựng, vận hành, giám sát công trình chất lượng nước. Nội dung này tại điều 6 của Luật Tài nguyên nước quy định đại diện cộng đồng dân cư được lấy ý kiến, giám sát hoạt động liên quan đến tài nguyên nước. Chúng tôi cũng mong muốn tổ chức đầu tư cũng như chính quyền địa phương tăng cường tạo điều kiện cho cộng đồng dân cư tham gia giám sát bên cạnh các cơ quan quản lý nhà nước.
 
(16:22 18/10/2021)
 
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo vệ chất lượng nguồn nước sạch trong tình hình mới
 
Luật Tài nguyên nước 2012 có quy định đối với việc bảo vệ chất lượng nguồn nước phục vụ sản xuất nước cho sinh hoạt. Tuy nhiên, thực tế một số văn bản, chính sách vẫn còn thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất về việc quản lý, giám sát chất lượng nước sạch sau quá trình sản xuất; việc quản lý, khai thác nước, bảo vệ nguồn nước; việc phân phối, tiêu thụ nước sạch đến các hộ dân. Sự thiếu đồng bộ trong các khâu, từ khai thác đến việc bảo đảm xử lý nước thô thành nước sạch và khâu phân phối qua hệ thống đường ống đến từng hộ dân, làm cho việc kiểm tra, giám sát cũng thường xuyên gặp khó khăn. Kết quả khảo sát chương trình mục tiêu quốc gia của Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, chất lượng nước uống ở nông thôn chưa được giám sát và kiểm định chặt chẽ…

(16:54 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Ông kỳ vọng gì từ những quy hoạch, đề án trên thưa ông Nguyễn Quang Huân? Những kết quả của hoạt động kiểm kê, điều tra cơ bản tài nguyên nước liệu sẽ giúp các nhà quản lý dự liệu, giảm tối đa việc thiếu nước sinh hoạt cho người dân, đặc biệt là các vùng khó khăn về nguồn nước không thưa ông?
 
Ông Nguyễn Quang Huân, Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Halcom Việt Nam:
 
Vấn đề nước đã được toàn xã hội, cả hệ thống chính trị và toàn nhân dân quan tâm, vì vậy, theo tôi trong thời gian tới các vấn đề về nước sẽ được cải thiện. Vì nếu chúng ta không bắt tay vào làm ngay từ bây giờ, thì 20-30 năm nữa con cháu chúng ta sẽ không có đủ nước sạch để dùng, bất kể mùa mưa hay mùa khô vì ô nhiễm.
 
Quyết định 1283 của Thủ tướng Chính phủ về kiểm kê nguồn nước, theo tôi đây là bước đi đầu tiên, cơ sở khoa học đầu tiên để tiến hành quy hoạch. Vì hiện nay nếu chúng ta muốn quy hoạch, muốn giảm nước thừa, tăng nước thiếu, giảm nước ô nhiễm thì phải có chiến lược cụ thể. Hiện nay các số liệu của chúng ta phần lớn lấy từ các tổ chức quốc tế, còn trong nước vẫn chưa có kho lưu trữ số liệu quốc gia.


Ông Nguyễn Quang Huân, Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Halcom Việt Nam
 
Các diễn giả tại đây cũng đề cập đến vấn đề Israel thành công về nước, cho đến nay họ là nước đầu tiên trên thế giới tuyên bố đủ nước dùng cho mọi mặt yêu cầu mà không phụ thuộc vào thời tiết. Họ tuyên bố điều này vào năm 2013 nhưng chúng ta phải biết rằng, họ đã chuẩn bị cho điều này từ năm 1939, tức là 74 năm để đạt được nguyện vọng đấy, có thể thấy Israel ưu tiên vấn đề về nước như thế nào.
 
Về việc tái sử dụng nước, Israel đã tái sử dụng nước đến 80-90%, nếu Việt Nam đi theo con đường đấy chưa hẳn phù hợp vì chi phí cho việc này rất lớn. Hiện nay quốc gia tái sử dụng nước đứng sau Israel là Tây Ban Nha chỉ khoảng hơn 20%, có thể thấy không phải quốc gia nào cũng tái sử dụng nước nhưng các quốc gia sẽ xử lý nước trước khi thải ra môi trường. Tuy nhiên các cùng thiếu nước như Ninh Thuận, Bình Thuận thì có thể nghiên cứu sử dụng hình thức tái sử dụng nước, thậm chí tính đến bài toán sử dụng nước biển, vì người dân có quyền tiếp cận nước sạch.
 
Vì vậy, theo tôi sau khi có số liệu đầy đủ thì phải xây dựng quy hoạch chính sách dài hạn, tầm nhìn xa. Để quy hoạch đi được vào đời sống thì phải có độ trễ tới hàng chục năm nên nếu quy hoạch của chúng ta không đủ dài hạn thì sẽ không thể có những phương án tối ưu.
 
Hiện nay ở Việt Nam, chúng ta đang thiếu hụt cơ chế tiếp cận kinh tế thị trường. Như các vấn đề về hồ đập. Chúng ta xây dựng hồ, đập với số lượng rất lớn, hơn 1.000 hồ, đập. Ban đầu ngân sách đầu tư xây dựng rất lớn nhưng do quá trình sử dụng, công tác quản lý vận hành chưa tốt, không duy tu, bảo dưỡng dẫn tới xuống cấp trầm trọng. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới điều này, trong đó có một nguyên nhân là do thiếu vốn, và việc thiếu vốn này là do chúng ta không vận hành kinh tế thị trường. Nếu hồ, đập mà tới 10 năm mới tiến hành bảo dưỡng một lần và chỉ lấy nguồn kinh phí từ nhà nước thì đấy sẽ là gánh nặng rất lớn. Tôi nghĩ chúng ta cần nghiên cứu chính sách để khắc phục vấn đề này.
 
Vấn đề ô nhiễm nguồn nước, hiện chúng ta chưa có cơ chế để một tổ chức nào đó vận hành bảo vệ nguồn nước. Như vấn đề trồng rừng để tạo nguồn sinh thủy, chúng ta phải có cơ quan, tổ chức thực hiện điều này. Nếu chỉ kêu gọi cộng đồng thì sẽ rất khó. Vì từ cộng đồng đi lên còn cần ý thức của người dân, khả năng kêu gọi được còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng nếu chúng ta có một tổ chức mà Nhà nước giao cho phụ trách việc này thì họ sẽ có cơ chế để hoạt động. Như Trung Quốc hiện nay, các cơ quan bảo vệ nguồn nước họ sẽ có một quỹ đất để khai thác, từ đó có nguồn kinh phí để đầu tư vào bảo vệ nguồn nước. Theo tôi, chúng ta nên nghiên cứu về vấn đề này, vì đây là một thành tố quan trọng trong bảo vệ an ninh nguồn nước.
 
Đây là dịp rất tốt để chúng ta có một bức tranh toàn cảnh, từ đó thống nhất chúng ta đang thiếu khuyết điều gì trong bảo vệ an ninh nguồn nước, vì nước liên quan đến rất nhiều yếu tố, chúng ta cần khắc phục dần dần và phải có lộ trình. Những điều dễ làm phải thay đổi ngay như trồng cây sinh thủy đầu nguồn, không có lý do gì để chậm chễ cả.

(16:59 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Người dân ở nhiều nơi tuy đã có nước hợp vệ sinh, nước sạch để dùng, nhưng việc kiểm định chất lượng nguồn nước tại nhiều địa phương còn sơ sài, thiếu chế tài và các giải pháp đồng bộ, thường xuyên. Thưa ông Nguyễn Lâm Thành, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, cần đổi mới cơ chế quản lý như thế nào để tránh tình trạng mỗi ngành, mỗi địa phương quản lý “một khúc”, thiếu thống nhất trong lĩnh vực này?
 
Ông Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội:
 
Vấn đề cung cấp nước của chúng ta trong giai đoạn vừa qua đã cải thiện rất nhiều, chuyển từ thiếu nước sang có nước, chuyển từ có nước sang nước sạch. Đối với khu vực đô thị có nhà máy nước lớn thì hệ thống nước được bảo đảm, song nhiều vùng nông thôn vẫn sử dụng thiết bị, hệ thống và nhà máy nước nhỏ. Đặc biệt nhiều khu vực miền núi chỉ chuyển từ hệ thống nước khe sang nước bể bằng hệ thống lọc rất sơ khai.
 
Hiện nay, các đánh giá ở địa phương, bộ ngành rất không đồng nhất về chỉ số, chỉ tiêu đạt được. Liên quan đến quản lý nhà nước, chúng ta đang thiếu thống nhất về chỉ tiêu đánh giá mức độ, chất lượng nước phục vụ sinh hoạt người dân. Ví dụ xếp cấp độ 1, 2, 3 thì phải tương ứng với chỉ số cụ thể nào. Các địa phương chưa thống nhất, các bộ ngành cũng chưa thống nhất mà nhiệm vụ này đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường nên phải quản lý, quy định rõ để bảo đảm phục vụ dân.

 
Bên cạnh nước sinh hoạt, vấn đề nhu cầu nước sản xuất trong xu hướng mới cần phải giải quyết tong tình hình hiện nay như thế nào? Chúng ta đang thiếu nguồn lực cho vấn đề hệ thống trung tâm xử lý. Khi yêu cầu nước kiểm định nâng cao thì kiểm định chất lượng nước tiến tới cũng trở thành nghề, kinh tế hoá. Một vấn đề nữa là về công nghệ, cần có các nghiên cứu, cải tiến thiết bị.
 
Theo tôi, bài toán quản lý nhà nước cần phải giải quyết tất cả các vấn đề đó, cả vấn đề cơ chế quản lý, thiết bị, nguồn nhân lực. Trong đó, quan trọng nhất là cơ chế quản lý làm sao phải khuyến khích được xã hội hoá, nhiều thành phần tham gia.
 
(16:50 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng:
 
Bảo vệ nguồn nước, bảo đảm nước sạch cho người dân là yêu cầu thiết yếu nhưng đi đôi còn là nguồn lực thực hiện. Thưa bà Nguyễn Thị Kim Anh, theo bà, theo bà, cần có những giải pháp gì trong việc đánh giá nguồn tài nguyên này để quản lý cho phù hợp, bảo đảm sử dụng hiệu quả, hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội đồng thời hạn chế ô nhiễm, suy thoái cạn kiệt nguồn nước?
 
Bà Nguyễn Thị Kim Anh, Ủy viên thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội:
 
Nước là tài nguyên hữu hạn, chúng tôi đánh giá nước vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển. Nếu chúng ta hành động đúng và trúng thì sẽ tạo thành động lực lớn. Ngược lại hành động không đúng thì sẽ đẩy lùi sự phát triển. Đánh giá tài nguyên nước để quản lý phù hợp là nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách hiện nay. Chúng tôi đánh giá, trong những năm qua công tác quản lý tài nguyên nước đạt được những thành tựu cụ thể, đảm bảo an sinh, sức khỏe, chất lượng cuộc sống, ở mức độ nước vẫn đang trong tầm kiểm soát. Nước sạch của người dân là yêu cầu tất yếu, do đó cần thiết đánh giá tài nguyên nước theo lưu vực sông, theo hiện trạng, phân vùng sử dụng nước và phân vùng hệ thống.
 
Năm 2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 183 có Đề án tổng thể kiểm kê tài nguyên nước quốc gia. Trong nội dung đề án này tập trung giải pháp đầy đủ để làm sao sử dụng hiệu quả, hợp lý nguồn tài nguyên nước. Từ đó, Chính phủ có đề nghị 10 giải pháp mà chúng tôi đồng tình, đó là huy động được nguồn lực tổ chức, nguồn lực xã hội hóa để chủ động cấp tưới tiêu thoát nước, an toàn đập, hồ chứa nước, đảm bảo thực hiện đa mục tiêu, phòng chống giảm thiểu tác động bất lợi do thiên tai, khí hậu, bảo vệ phát triển rừng. Xây dựng hệ thống theo dõi, an ninh nước, tăng cường khoa học công nghệ , hợp tác quốc tế, truyền thông để giúp cho cơ quan tổ chức xã hội, người dân thấy được tầm quan trọng của đề án này.
 
Chúng tôi thấy rằng, bên cạnh Chính phủ đề xuất Quốc hội xem xét  Đề án an ninh nguồn nước, thì  Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường báo cáo với Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ đề nghị Chính phủ có một Nghị quyết riêng về vấn đề an ninh nguồn nước, từ đó giúp cho toàn dân, các tổ chức chung tay thực hiện nhiệm vụ này. Trong một vài năm tới, chúng tôi đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường khẩn trương hoàn thiện hồ sơ, xây dựng, sửa đổi bổ sung Luật Tài nguyên nước cũng như các luật có liên quan đến tài nguyên để phù hợp với thực tiễn, xu thế phát triển hiện nay, đảm bảo tiết kiệm, khai thác nước hiệu quả, để người dân đều bình đẳng trong sử dụng nước.
 
(17:01 18/10/2021)
 
Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Thưa quý vị và các bạn!
 
Tiếp cận nguồn nước an toàn là nền tảng cho sức khỏe cộng đồng - điều này rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững. Tầm quan trọng của nước đối với xã hội, sức khỏe con người, phát triển kinh tế và hệ sinh thái đã được xác định. Nguồn nước hữu hạn, nhu cầu ngày một cao nên việc quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước phục vụ phát triển bền vững là rất cần thiết. Trong thời gian rất ngắn, các ý kiến của các nhà quản lý, nhà lập pháp, các chuyên gia, doanh nghiệp tại buổi tọa đàm hôm nay sẽ là một kênh thông tin quý báu để các cấp, các ngành, địa phương nỗ lực chung tay, vào cuộc, đặc biệt là nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong những việc làm cụ thể hằng ngày, hướng tới mục tiêu quản lý và phát triển bền vững tài nguyên nước.
 
Một lần nữa, trân trọng cảm ơn các vị khách quý đã tham gia Tọa đàm ngày hôm nay và mong được gặp lại trong lần đối thoại lần sau.
 
Xin trân trọng cảm ơn!

Nguồn tin: daibieunhandan.vn

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 


Ngày nước thế giới 2021
1
1
1
1
T2 T3 T4 T5 T6 T7 CN
      1 2 3 4
5 6 7 8 9 10 11
12 13 14 15 16 17 18
19 20 21 22 23 24 25
26 27 28 29 30    
2022 << 6/2023 >> 2024
LIÊN KẾT WEBSITE :
1
1
1
1
1

Thống kê

thoi trang Đang truy cập : 159

Máy chủ tìm kiếm : 11

Khách viếng thăm : 148


thoi trang cong so Hôm nay : 507

áo khoác nữ Hàn Quốc Tháng hiện tại : 191655

áo sơ mi nữ công sở Tổng lượt truy cập : 49678790

áo khoác nữ Hàn Quốc vay dep thời trang LOZA thiết kế bộ nhận diện thương hiệu lò hơi nồi hơi rèm cửa giá rẻ Dong phuc nhom san panel Máy làm đá viên công nghiệp Máy sản xuất đá viên Máy xay đá may lam da vien cáp nhôm bọc xlpe giá treo tivi