Tham dự cuộc họp có đại diện cơ quan của Chính phủ, Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, nhà khoa học cùng các thành viên của Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, Trưởng Ban soạn thảo và Thứ trưởng Lê Công Thành, Phó Trưởng ban soạn thảo chủ trì cuộc họp.
Phát biểu tại cuộc họp, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, phạm vi quản lý rất rộng và là điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của đất nước. Luật Tài nguyên nước năm 2012 qua gần 10 năm thực hiện, đã góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, trong điều kiện biến đổi khí hậu, 63% lượng nước được hình thành ở bên ngoài lãnh thổ, chất lượng tài nguyên nước suy giảm đặt ra nhiều thách thức lớn. Nhiều chủ trương mới về quản lý tài nguyên và yêu cầu thực tiễn về bảo vệ, phục hồi để bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia. Thực tế đó đòi hỏi pháp luật về tài nguyên nước và một số Luật liên quan đến quản lý, bảo vệ tài nguyên nước cần thiết phải sớm được cập nhật, sửa đổi, bổ sung, bảo đảm tính thống nhất, toàn diện.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã được Ban soạn thảo, Tổ biên tập hoàn thành, tập trung vào 4 nhóm chính sách mà Chính phủ đã trình Quốc hội và được Quốc hội thông qua là Bảo đảm an ninh nguồn nước; Xã hội hóa ngành nước; Kinh tế tài nguyên nước; Bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra và đề xuất sửa đổi bổ sung một số chính sách khác.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà phát biểu tại cuộc họp
Tại cuộc họp, Bộ trưởng cũng đề nghị các đại biểu căn cứ trên điều kiện thực tiễn sẽ đánh giá, đưa ra các quan điểm, tư duy nguyên tắc, góp ý, bổ sung cho cơ quan soạn thảo để hoàn thiện dự án Luật tài nguyên nước (sửa đổi), đảm bảo tháo gỡ những xung đột, vướng mắc của các chính sách, thống nhất được các tư duy mới để Luật tài nguyên nước (sửa đổi) đáp ứng được tình hình thực tiễn trong tương lai.
Bổ sung nhiều điểm mới trong dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi)
Báo cáo một số điểm mới và định hướng xây dựng dự thảo Luật, Cục trưởng Cục quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cho biết, Dự thảo Luật lần này sẽ bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương. Hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của Nhà nước. Dự thảo Luật xây dựng theo hướng tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước (công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn, cấp nước công nghiệp dịch vụ, giao thông thủy...); đồng thời, giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, có lỗ hổng trong các Luật.
Cục trưởng Cục quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh báo cáo một số điểm mới và định hướng xây dựng dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi)
Bổ sung các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; quy định cụ thể về bảo vệ nguồn nước quan trọng cấp cho sinh hoạt; quy định về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí, bảo vệ nguồn nước trong các hoạt động khai thác, sử dụng nước.
Bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hóa theo hướng những việc gì doanh nghiệp có thể làm được thì giao cho doanh nghiệp thực hiện, giảm nguồn lực đầu tư của Nhà nước hướng tới nhà nước quản lý, doanh nghiệp thực hiện và dần dịch chuyển theo hướng Nhà nước chỉ ban hành chính sách và hậu kiểm.
Bổ sung quy định về nguồn lực cho bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, trong đó, quy định rõ các nguồn lực để thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn nước; làm rõ các hoạt động ưu tiên xã hội hóa, chính sách xã hội hoá trong bảo vệ, phát triển tài nguyên nước. Với quan điểm là phát triển kinh tế gắn liền với việc “đầu tư lại’’ trong công tác bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, cải tạo cảnh quan, bảo tồn giá trị của hệ sinh thái liên quan đến nước.
Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước.
Bổ sung quy định về đối tượng và nội dung về thu trữ nước mưa và việc sử dụng nước mưa tại các khu vực thường xuyên hạn hán thiếu nước và vùng thường xuyên ngập lụt; quy định cơ chế, chính sách trong việc thu trữ nước mưa.
Bổ sung, cập nhật quy định theo hướng kiểm soát toàn diện các hoạt động có ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng đến nguồn nước, đến ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ chứa, ô nhiễm nguồn nước, bảo vệ môi trường, cảnh quan, hệ sinh thái ven sông,….
Bổ sung quy định về phân vùng chức năng nguồn nước; quy định nội dung giám sát, trách nhiệm giám sát và kết nối dữ liệu giám sát của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước theo hướng tự động liên tục hoặc định kỳ đảm bảo giám sát khai thác, sử dụng nước của công trình... nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước để bảo vệ số lượng, chất lượng của nguồn nước và bảo vệ các dòng sông.
Bổ sung nội dung về xác định các vùng, tiểu lưu vực, nguồn nước phải lập kế hoạch chi tiết sử dụng nước trong quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh. Để giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể của từng lưu vực sông xảy ra ở tiểu lưu vực đang gặp phải như vấn đề hạn hán, ô nhiễm, suy thoái, lũ lụt,…tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực.
Quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện xây dựng kịch bản ứng phó, điều hòa, phân bổ nguồn nước khi xảy ra hạn hán thiếu nước và thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng.
Ngoài ra, còn một số nội dung được chỉnh sửa, bổ sung mới như: Hệ thống thông tin, dữ liệu tài nguyên nước; bảo vệ nước dưới đất; các loại hình công trình khai thác, công trình sử dụng nước phải có giấy phép; bổ sung nhân tạo nước dưới đất; Phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo; bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, hồ; phương án xử lý đối với các công trình khai thác sử dụng nước kém hiệu quả gây suy thoái cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước.
Toàn cảnh cuộc họp
Đảm bảo an ninh nguồn nước sẽ được cụ thể hóa, xuyên suốt trong dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi)
Cục trưởng Châu Trần Vĩnh cũng cho biết, so với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 43 điều, sửa đổi, bổ sung 31 điều, bổ sung mới 04 điều) và bãi bỏ 02 điều. Trong đó, các chính sách về đảm bảo an ninh nguồn nước sẽ được cụ thể hóa xuyên suốt trong các Điều có liên quan trong dự thảo Luật, theo từng nhóm vấn đề như: (i) Đảm bảo về số lượng cho các mục đích sử dụng; (ii) Đảm bảo về chất lượng cho các mục đích sử dụng; và (iii) Đảm bảo cho các hệ sinh thái và môi trường.
Chính sách Xã hội hoá ngành nước được bổ sung theo hướng quy định việc xã hội hóa các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước; bổ sung quy định theo hướng các đơn vị, tổ chức, cá nhân thực hiện điều tra cơ bản tài nguyên nước phải cập nhật vào cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước; các tổ chức, cá nhân thuộc diện cấp phép TNN phải cập nhật kết quả đánh giá TNN trong quá trình lập hồ sơ đề nghị cấp giấy phép TNN và cập nhật kết quả quan trắc TNN về hệ thống giám sát trong quá trình khai thác TNN; Bổ sung về xã hội hóa công tác quan trắc, giám sát TNN theo hướng các tổ chức, cá nhân thực hiện quan trắc tài nguyên nước phải cập nhật vào hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước; …
Chính sách tài chính về tài nguyên nước sẽ sửa đổi tên chương “Tài chính về tài nguyên nước” trong Luật tài nguyên nước 2012 thành “Công cụ kinh tế và nguồn lực cho bảo vệ, phát triển nguồn nước”; Sửa đổi, bổ sung Điều 64 về Nguồn thu ngân sách nhà nước từ hoạt động tài nguyên nước, sửa đổi tên điều thành Nguồn thu ngân sách nhà nước từ hoạt động tài nguyên nước, đồng thời quy định về Thuế tài nguyên nước, Phí tài nguyên nước; Sửa đổi, bổ sung Điều 65 về Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo hướng quy định bổ sung cụ thể đối tượng phải nộp tiền cấp quyền khai thác nước và quy định tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được ưu tiên sử dụng cho các hoạt động về bảo vệ, phát triển nguồn nước và được quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; Bổ sung mới Điều 65a về dịch vụ liên quan đến tài nguyên nước theo hướng quy định cụ thể các dịch vụ liên quan đến tài nguyên nước, nguyên tắc chi trả dịch vụ; Bổ sung mới Điều 65b về nguồn lực cho bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, trong đó quy định rõ các nguồn lực để thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn nước; làm rõ các hoạt động ưu tiên xã hội hoá, chính sách xã hội hoá trong bảo vệ, phát triển tài nguyên nước.
Chính sách Bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra và đề xuất sửa đổi bổ sung một số chính sách khác sẽ quy định về phương án xử lý đối với các công trình khai thác sử dụng nước kém hiệu quả gây suy thoái cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước. Nước thải phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải được xử lý, kiểm soát và có các biện pháp phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước theo quy định pháp luật về bảo vệ môi trường. Nước thải xả vào nguồn nước phải đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng nước thải, phù hợp với chức năng nguồn nước và sức chịu tải của môi trường nước tiếp nhận;...
Bên cạnh đó, sẽ sửa đổi, bổ sung vào Điều 35 theo hướng bổ sung thêm các đối tượng quản lý liên quan đến hoạt động gây ảnh đến nước dưới đất (xây dựng công trình ngầm, bơm hút nước tháo khô mỏ); quy định về bảo vệ chất lượng nước dưới đất. Quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, và trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong bảo vệ nước dưới đất; sửa đổi, bổ sung vào khoản 4 Điều 52 theo hướng rà soát, lược bỏ các vùng hạn chế khai thác nước dưới đất chưa phù hợp; Sửa đổi, bổ sung Điều 56 theo hướng quy định rõ các khu vực phải bổ sung nhân tạo NDĐ; trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức, cá nhân trong việc bổ sung nhân tạo nước dưới đất; Quy trình vận hành liên hồ chứa phải hướng tới theo thời gian thực đảm bảo tối ưu việc điều tiết nước cho các mục đích sử dụng;....
Thiết lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất về tài nguyên nước
Phát biểu tại cuộc họp, các đại biểu đánh giá cao công tác chuẩn bị và bày tỏ quan điểm thống nhất đối với các định hướng sửa đổi Luật tài nguyên nước (sửa đổi), đáp ứng được nhiều vấn đề thực tiễn trong thời gian qua và bổ sung nhiều chính sách mới.
Để hoàn thiện hơn nữa dự án Luật, các đại biểu cũng đưa ra những đề xuất, ý kiến tâm huyết để giải quyết những vấn đề còn chồng chéo trong các chính sách liên quan đến tài nguyên nước; xem xét đầy đủ mối quan hệ với các luật và các lĩnh vực liên quan; đẩy mạnh, quan tâm đến phát triển nguồn nước, bảo vệ chu trình nước; sử dụng nước tuần hoàn, luân phiên nước; quy hoạch không gian ngầm; khai thác, sử dụng hợp lý luân phiên giữa nước mưa - nước mặt - nước dưới đất; các quy định về thu gom nước mưa để bổ sung trực tiếp cho các tầng chứa nước hoặc tích trữ sử dụng vào những mục đích khác như cứu hỏa, tưới cây, sinh hoạt vào mùa khô… Bên cạnh đó, cần đặt vấn đề coi nước thải là một loại tài nguyên, có thể tạo ra lợi nhuận, và là nguồn năng lượng tái tạo góp phần đáng kể vào bảo vệ môi trường; vấn đề ô nhiễm nguồn nước; vấn đề an ninh nguồn nước; đảm bảo quyền lợi cho người dân được tiếp cận nguồn nước sạch; các doanh nghiệp khai thác, sử dụng nguồn nước được công bằng và thực hiện theo đúng quy định pháp luật; …
Các đại biểu tham gia đóng góp ý kiến tại cuộc họp
Các đại biểu cũng đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát kỹ các điều, khoản trong dự thảo Luật; lập kế hoạch chi tiết, trong đó phân công rõ nhiệm vụ của từng cơ quan, cá nhân được giao nhiệm vụ; tổ chức các hội thảo tham vấn đảm bảo tính vùng, miền và theo nhóm đối tượng chịu tác động để đảm bảo xây dựng dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi) hiệu quả, đi vào thực tiễn cuộc sống.
Phát biểu kết luận cuộc họp, Bộ trưởng Trần Hồng Hà đánh giá cao những nỗ lực của Cục Quản lý tài nguyên nước trong công tác chuẩn bị, xây dựng hồ sơ dự án Luật tài nguyên nước (sửa đổi) trong thời gian qua. Đặc biệt, Tổ biên tập đã thực hiện rà soát, tổng kết Luật Tài nguyên nước năm 2012, cập nhật, bám sát các chủ trương, quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước trong các Nghị quyết để thực hiện như: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 15/01/2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế; Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,... làm căn cứ chính trị và cơ sở lý luận cho việc xác định cụ thể hoá những quan điểm, chủ trương, chính sách cơ bản trong dự thảo Luật.
Trên cơ sở các ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học và các đại biểu tại cuộc họp, Bộ trưởng đề nghị, cơ quan soạn thảo cần tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) theo hướng bổ sung, hoàn thiện các chính sách đã ban hành và nghiên cứu tích hợp các quy định về quản lý nước trong một bộ luật về nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện các vấn đề về nước trên cơ sở thống nhất quản lý về tài nguyên nước.
Xác định rõ các mục tiêu, yêu cầu thực tiễn của tài nguyên nước hiện nay, từ đó, đưa ra các quan điểm để giải quyết những chồng chéo giữa Luật Tài nguyên nước với các luật khác, thống nhất việc điều tra, quản lý, khai thác sử dụng từ Trung ương đến địa phương.
Tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bảo đảm minh bạch, đồng bộ để có khả năng vốn hóa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật nhằm quản lý, bảo vệ tài nguyên nước, góp phần quan trọng trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia.
Hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số và tích hợp các quy định về quản lý nước trong Luật Tài nguyên nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện các vấn đề về nước, bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia trên cơ sở thống nhất quản lý về tài nguyên nước; đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đủ cơ sở pháp lý để giải quyết những vấn đề về tài nguyên nước đặt ra của giai đoạn phát triển mới; bảo đảm tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế; tạo hành lang pháp lý đồng bộ về tài nguyên nước, thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội.