Trang nhất » Tin tức - Sự kiện » Hoạt động của Cục - Tin liên quan

Tuần lễ Nước Việt Nam 2022: Hướng tới phát triển lĩnh vực cấp thoát nước bền vững

Thứ năm - 10/11/2022 22:34
Các đại biểu cắt băng khai mạc Tuần lễ Nước Việt Nam 2022

Các đại biểu cắt băng khai mạc Tuần lễ Nước Việt Nam 2022

Sáng 10/11, tại Hà Nội, Tuần lễ Nước Việt Nam 2022 (VietNam Water Week 2022) đã chính thức khai mạc. Sự kiện diễn ra từ ngày ngày 09 -11/11, do Hội Cấp thoát nước Việt Nam chủ trì tổ chức, với sự bảo trợ của Bộ Xây dựng, Cổng thông tin Điện tử Chính phủ. Đây là lần đầu tiên Tuần lễ Nước Việt Nam được tổ chức.

Tham dự Lễ khai mạc có gần 700 đại biểu là đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam, các nhà khoa học trong nước và quốc tế, lãnh đạo các đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực cấp, thoát nước, xử lý nước thải và vệ sinh môi trường tại Việt Nam cùng nhiều tổ chức ngành Nước ở nhiều quốc gia.
 
Phát biểu khai mạc sự kiện, Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam Nguyễn Ngọc Điệp cho biết, vấn đề an ninh an toàn trong hoạt động ngành nước là một trong những nhân tố quan trọng gắn với giảm đói nghèo, cải thiện chất lượng cuộc sống cho nhân dân cũng như làm nền tảng cho các mục tiêu phát triển khác của mỗi quốc gia.


Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam Nguyễn Ngọc Điệp phát biểu tại lễ khai mạc
 
Cùng với khó khăn chung của các quốc gia, ngành nước Việt Nam còn có nhiều thách thức riêng như: Vấn đề về thể chế chính sách chưa được hoàn thiện; việc đảm bảo thực hiện cấp nước an toàn cho cả khu vực đô thị và nông thôn; vấn đề thoát nước và xử lý nước thải còn đạt ở mức quá thấp (đến nay mới 15% nước thải được xử lý); vấn đề ngập lụt ở các đô thị lớn…
 
Để giải quyết những khó khăn thách thức đó, trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực trong việc hoàn thiện thể chế chính sách thông qua ban hành và bổ sung chỉnh sửa nhiều luật liên quan đến ngành nước như: Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư;… thu hút các nguồn lực cho đầu tư, nâng cao năng lực, chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt việc áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực cấp thoát nước và xử lý nước thải.
 
Bên cạnh đó, các hoạt động hợp tác quốc tế cũng được tăng cường bằng nhiều hình thức đa dạng nhằm tranh thủ sự hỗ trợ và chia sẻ kinh nghiệm từ quốc tế.
 
Tuy nhiên, ông Nguyễn Ngọc Điệp cũng cho rằng, để đạt được các mục tiêu Chính phủ đặt ra, các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc đến 2030 và giải quyết những thách thức nêu trên, ngành Nước Việt Nam cần phải nỗ lực rất nhiều trong thời gian tới. 
 
Theo đó, Tuần lễ Nước Việt Nam 2022 với chủ đề “Chính sách ngành Nước - Phát triển bền vững” là cơ hội cơ hội để các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp ngành nước Việt Nam trao đổi, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm, cùng đưa ra các ý tưởng, sáng kiến, giải pháp có tính lâu dài, thích ứng được với những tác động bất lợi của dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu… Đặc biệt là những kinh nghiệm xây dựng thể chế chính sách, nhất là xây dựng Luật Cấp Thoát nước cũng như định hướng chính sách phù hợp để giúp cho Việt Nam cùng các quốc gia sớm đạt được mục tiêu phát triển của Liên Hợp Quốc đến 2030 về bảo đảm cung cấp nước và vệ sinh, hướng tới sự phát triển một cách bền vững của ngành nước trong tương lai...
 
Phát biểu tại sự kiện, PGS.TS Mai Thị Liên Hương - Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật (Bộ Xây dựng) đánh giá cao Hội Cấp thoát nước Việt Nam trong sáng kiến lần đầu tiên tổ chức Tuần lễ Nước Việt Nam; đánh giá cao các doanh nghiệp ngành nước trong việc hưởng ứng đồng hành, tham gia sự kiện.
 
Bà Mai Thị Liên Hương cho biết, hiện nay, Việt Nam có trên 750 nhà máy nước sạch phục vụ đô thị và nông thôn phụ cận với tổng công suất là 11,6 triệu m3/ngày đêm. Tỉ lệ dân cư đô thị được cung cấp nước sạch 92%, tỉ lệ thất thoát, thất thu nước sạch giảm còn khoảng 17,2%.
 
Tuy nhiên, về thoát nước và xử lý nước thải, cả nước mới có khoảng 71 nhà máy xử lý nước thải tập trung đã đi vào vận hành với tổng công suất thiết kế khoảng 1,38 triệu m3/ngày; tỉ lệ thu gom xử lý nước thải sinh hoạt đô thị chỉ đạt khoảng 15%.
 
Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu, hạn hán thiên tai và xâm nhập mặn, cùng với việc gia tăng dân số và tốc độ đô thị hóa tăng nhanh đã tác động không nhỏ đến sự phát triển của ngành nước ở Việt Nam, trong đó việc giải quyết bài toán an ninh, an toàn cấp nước, tình trạng ngập úng đô thị và vấn đề xử lý nước thải là những thách thức được đặt ra đối với ngành nước Việt Nam.
 
Trong nhiều năm qua, đặc biệt từ năm 2000 đến nay, Hội Cấp thoát nước Việt Nam đã có nhiều đổi mới trong hoạt động, gắn liền với thực tế cuộc sống đáp ứng sự phát triển ngày càng cao nhu cầu nước cho dân sinh và sản xuất; kịp thời phổ biến chính sách, tái cơ cấu, kiện toàn tổ chức; tham gia phản biện nhiều chính sách ngành nước,… được Bộ Xây dựng tin tưởng và đánh giá là một trong những Hội nghề nghiệp hoạt động có hiệu quả, đóng góp vào thành tích của Bộ Xây dựng trong phát triển ngành nước nói riêng và lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị nói chung.


Bà Mai Thị Liên Hương, Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật (Bộ Xây dựng) phát biểu 
 
Nhân Tuần lễ Nước Việt Nam và nhằm hướng tới phát triển lĩnh vực cấp thoát nước bền vững, Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật đề nghị, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về cấp, thoát nước; Ban hành cơ chế chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng, quản lý và vận hành hệ thống cấp thoát nước, bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Các cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp với Bộ Xây dựng tập trung xây dựng Luật Cấp thoát nước, trình Quốc hội thông qua trước năm 2025.
 
Các doanh nghiệp trong ngành cấp thoát nước tiếp tục quan tâm đến việc ứng dụng công nghệ tiến tiến, thân thiện với môi trường trong hoạt động xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống cấp thoát nước, góp phần bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm tài nguyên nước, thích ứng biến đổi khí hậu, hướng tới phát triển bền vững.
 
Ngành cấp thoát nước, đặc biệt là Hội Cấp thoát nước Việt Nam và các hội viên tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế về việc chia sẻ kinh nghiệp quản lý ngành nước cũng như nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao công nghệ về vật tư, vật liệu, thiết bị ngành nước.
 
Trong khuôn khổ sự kiện Vietnam Water Week 2022, đã diễn ra 02 hội thảo chuyên đề: Chính sách ngành nước - phát triển bền vững; Biến đổi khí hậu: An ninh nguồn nước - cấp nước an toàn; trưng bày các gian hàng giới thiệu về những thiết bị công nghệ cũng như các tiến bộ công nghệ ngành nước Việt Nam và quốc tế.
 
Trong đó, hội thảo “Chính sách ngành nước – Phát triển bền vững” tập trung vào các vấn đề của chính sách ngành nước đang quan tâm, liên quan đến việc xây dựng Luật Cấp thoát nước, các giải pháp thực hiện Chiến lược Quốc gia nước sạch và Vệ sinh nông thôn đến năm 2030 tầm nhìn đến 2045; một số nội dung sửa đổi Luật tài nguyên nước, chuyển đổi số ngành nước, mô hình PPP trong đầu tư ngành nước...
 
Hội thảo “Biến đổi khí hậu – An ninh nguồn nước – Cấp nước an toàn” chia sẻ các kết quả và kinh nghiệm trong triển khai thực hiện, cũng như giới thiệu một số tiến bộ kỹ thuật của ngành nước trong nước và quốc tế.


Các đại biểu cắt băng khai mạc Tuần lễ Nước Việt Nam 2022
 
Tham luận về tình hình xây dựng Luật tài nguyên nước (sửa đổi), Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Nguyễn Minh Khuyến cho biết, Luật Tài nguyên nước năm 2012 qua gần 10 năm thực hiện, Luật đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện biến đổi khí hậu, 63% lượng nước được hình thành ở bên ngoài lãnh thổ, chất lượng tài nguyên nước suy giảm đặt ra nhiều thách thức lớn. Nhiều chủ trương mới về quản lý tài nguyên và yêu cầu thực tiễn về bảo vệ, phục hồi để bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia. Một số nội dung của Luật Tài nguyên nước năm 2012 thực thi chưa hiệu quả, khó khăn khi triển khai trên thực tế do có sự giao thoa với pháp luật khác và giao thoa trong quá trình tổ chức thực hiện; tài nguyên nước chưa được quản lý tổng hợp, thống nhất. Thực tế đó đòi hỏi cần thiết phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật tài nguyên nước năm 2012.


Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Nguyễn Minh Khuyến trình bày tham luận về tình hình xây dựng Luật tài nguyên nước (sửa đổi) tại hội thảo “Chính sách ngành nước – Phát triển bền vững” 

Theo đó, việc xây dựng Luật tài nguyên nước (sửa đổi) được dựa trên 04 quan điểm chính như sau: Một là, cụ thể hoá các Nghị quyết của Đảng, thể chế hoá quan điểm tài nguyên nước là tài nguyên quan trọng, thiết yếu, là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý.  Hai là, tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm minh bạch, đồng bộ để có khả năng vốn hoá nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng cộng nghệ số; tích hợp các quy định về quản lý nước trong Luật Tài nguyên nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện các vấn đề về nước, bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia nên cơ sở thống nhất quản lý về tài nguyên nước; bảo đảm tính tương thích với pháp luật, thông lệ quốc tế và tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Ba là, Ttếp tục kế thừa các quy định của Luật Tài nguyên nước năm 2012 đang phát huy hiệu quả nhưng phải đổi mới và phát triển. Bám sát, giải quyết vấn đề nguồn nước đang “quá thừa, quá thiếu, quá bẩn”, coi tài nguyên nước là trọng tâm, nghiên cứu điều chỉnh các quy định trong các luật khác để bảo đảm thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, quản lý hiệu quả đúng giá trị nguồn tài nguyên trên cơ sở phân cấp, phân quyền, bằng những công cụ tài chính tiên tiến để tài nguyên nước là nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội.
 
Về một số điểm mới và định hướng xây dựng dự thảo Luật, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Nguyễn Minh Khuyến cho biết, Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) gồm 87 điều và được bố cục thành 10 chương. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 19 điều, sửa đổi, bổ sung 55 điều, bổ sung mới 13 điều) và bãi bỏ 05 điều.
 
Trong đó, dự thảo Luật đã bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương. Hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước.
 
Dự thảo Luật xây dựng theo hướng tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước (công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn, cấp nước công nghiệp dịch vụ, giao thông thủy...); đồng thời giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, có lỗ hổng trong các luật.
 
Bổ sung các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; Quy định cụ thể về bảo vệ nguồn nước quan trọng cấp cho sinh hoạt; quy định về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí, bảo vệ nguồn nước trong các hoạt động khai thác, sử dụng nước.
 
Bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hoá theo hướng những việc gì doanh nghiệp có thể làm được thì giao cho doanh nghiệp thực hiện, giảm nguồn lực đầu tư của nhà nước hướng tới nhà nước quản lý, doanh nghiệp thực hiện và dần dịch chuyển theo hướng nhà nước chỉ ban hành chính sách và hậu kiểm.
 
Bổ sung quy định về nguồn lực cho bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, trong đó quy định rõ các nguồn lực để thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn nước; làm rõ các hoạt động ưu tiên xã hội hoá, chính sách xã hội hoá trong bảo vệ, phát triển tài nguyên nước .Với quan điểm là phát triển kinh tế gắn liền với việc ’’đầu tư lại’’ trong công tác bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, cải tạo cảnh quan, bảo tồn giá trị của hệ sinh thái liên quan đến nước.  


Các đại biểu tham dự hội thảo “Chính sách ngành nước – Phát triển bền vững” 
 
Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước. 
 
Bổ sung quy định về đối tượng và nội dung về thu trữ nước mưa và việc sử dụng nước mưa tại các khu vực thường xuyên hạn hán thiếu nước và vùng thường xuyên ngập lụt; quy định cơ chế, chính sách trong việc thu trữ nước mưa. 
 
Bổ sung, cập nhật quy định theo hướng kiểm soát toàn diện các hoạt động có ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng đến nguồn nước, đến ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ chứa, ô nhiễm nguồn nước, bảo vệ môi trường, cảnh quan, hệ sinh thái ven sông,…
 
Bổ sung quy định về phân vùng chức năng nguồn nước, dòng chảy tối thiểu, ngưỡng khai thác nước dưới đất; quy định nội dung giám sát, trách nhiệm giám sát và kết nối dữ liệu giám sát của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước theo hướng tự động liên tục hoặc định kỳ đảm bảo giám sát khai thác, sử dụng nước của công trình... nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước để bảo vệ số lượng, chất lượng của nguồn nước và bảo vệ các dòng sông. 
 
Bổ sung nội dung về xác định các vùng, tiểu lưu vực, nguồn nước phải lập kế hoạch chi tiết sử dụng nước trong quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh. Để giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể của từng lưu vực sông xảy ra ở tiểu lưu vực đang gặp phải như vấn đề hạn hán, ô nhiễm, suy thoái, lũ lụt,…tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực.


Toàn cảnh Hội thảo “Chính sách ngành nước – Phát triển bền vững” 
 
Quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện xây dựng kịch bản ứng phó, điều hoà, phân bổ nguồn nước khi xảy ra hạn hán thiếu nước và thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng.
 
Ngoài ra, còn một số nội dung được chỉnh sửa, bổ sung mới như: Hệ thống thông tin, dữ liệu tài nguyên nước; bảo vệ nước dưới đất; các loại hình công trình khai thác, công trình sử dụng nước phải có giấy phép; bổ sung nhân tạo nước dưới đất; Phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo; Bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, hồ; phương án xử lý đối với các công trình khai thác sử dụng nước kém hiệu quả gây suy thoái cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước. Bỏ quy định về điều kiện của đơn vị tư vấn lập quy hoạch, điều tra cơ bản tài nguyên nước. 

Tác giả bài viết: DWRM

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 
áo khoác nữ Hàn Quốc vay dep thời trang LOZA thiết kế bộ nhận diện thương hiệu lò hơi nồi hơi rèm cửa giá rẻ Dong phuc nhom san panel Máy làm đá viên công nghiệp Máy sản xuất đá viên Máy xay đá may lam da vien cáp nhôm bọc xlpe giá treo tivi