Những thách thức mà ĐBSCL đang phải đối mặt vì sự phát triển kinh tế xã hội đều liên quan đến nguồn nước từ dòng chảy thượng lưu, điều tiết của Biển hồ và các tác động của con người vào tự nhiên
Mỗi năm đến mùa lũ, ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) người dân thường gọi là mùa nước nổi, người ta được chứng kiến cảnh tượng hoành tráng , phóng khoáng, lãng mạng của thiên nhiên cũng như tính cách của người Nam bộ. Nước lũ về là nguồn sống, niềm vui đem đến lượng phù sa bồi đắp cho đồng ruộng, nguồn lợi về thủy sản, thau rửa đất chua phèn và vệ sinh đồng ruộng. Người ta có cảm giác cuộc sống của con người cũng lên theo con nước.
Nhưng 7 năm liên tiếp gần đây, ĐBSCL có lũ dưới trung bình, trong đó tại Tân Châu năm 2006 có mực nước 4,00 m, năm 2008 chỉ đạt 3,65 m. Năm nay, đến giờ này, mực nước sông Cửu Long vẫn còn thấp hơn cùng thời kỳ vào năm ngoái hơn 1 m. Ngay ngoài vùng đê bao, cánh đồng ở Tứ giác Long Xuyên lũ chưa tràn bờ ruộng. Cả vùng trũng của Việt Nam-Campuchia đang khát nước ngay trong mùa lũ! Phân tích chuỗi số liệu thống kê, có thể nói chưa bao giờ lũ về chậm và thấp như năm nay. Thực tế những năm gần đây, cho thấy tác động tiêu cực ngày càng lớn của lũ nhỏ đối với ĐBSCL, nhất là khi toàn lưu vực sông Mê Công gặp năm hạn nghiêm trọng. Bởi thế, người dân Nam bộ luôn ngóng trông “bao giờ cho đến mùa nước nổi” hay nói một cách nôm na họ mong có “lũ đẹp” (mực nước ở Tân Châu khoảng 4,20 - 4,40 m) để làm ăn, sinh sống cùng với con nước.
Những thách thức mà ĐBSCL đang phải đối mặt vì sự phát triển kinh tế xã hội đều liên quan đến nguồn nước từ dòng chảy thượng lưu, điều tiết của Biển hồ và các tác động của con người vào tự nhiên. Mùa lũ năm nay, nước về chậm và thấp do nguyên nhân biến đổi khí hậu tác động trực tiếp đến lượng mưa cả về không gian lẫn thời gian. Năm ngoái, mùa mưa ở ĐBSCL kết thúc sớm 1 tháng, năm nay mưa lại muộn mất 1 tháng. Trong khi đó, lượng mưa đóng góp phần lớn vào dòng chảy cho sông Mê Công ở khu vực thượng lưu đặc biệt là vùng trung Lào cũng ít hơn hẳn so với trung bình nhiều năm. Theo thống kê mưa từ đầu tháng 4 cho đến cuối tháng 8 năm nay có một điểm cần lưu ý là phân bố mưa không đều trên lưu vực sông Mê Công. Khu vực thượng và trung lưu từ Chiang Saen (Thái Lan) xuống đến Kongpong Chiam (Campuchia) tổng lượng mưa nhìn chung thấp hơn trung bình nhiều năm và thấp hơn năm 2009. Tuy nhiên, tổng lượng mưa khu vực hạ lưu từ PhnomPenh-Neakluong, khu vực Tonle Bassac như KonKel, Prekdam ở mức trung bình nhiều năm. Tình hình mưa trong tháng 9 có khả năng diễn biến phức tạp tùy thuộc vào số lượng các cơn bão xuất hiện ở miền Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Từ đầu mùa lũ đến nay, mực nước trên toàn hệ thống sông Mê Công nhìn chung thấp hơn mức trung bình nhiều năm. So với năm 2009, chỉ trừ đợt mưa lớn và mực nước dâng cao tại 1 số vị trí thượng lưu như Luong Prabang, nhìn chung thuộc dạng thấp, đặc biệt từ PhnomPenh trở xuống Tân Châu-Châu Đốc mực nước hiện nay vẫn thấp hơn mức trung bình nhiều năm từ 1-2 m.
Phân tích các ảnh vệ tinh và qua các tài liệu điều tra nhận thấy các hồ chứa ở thượng lưu trong quá trình tích nước góp phần làm suy giảm dòng chảy sông Mê Công. Các hồ thủy điện ở phía thượng lưu về lý thuyết, tích nước trong mùa lũ, xã nước về mùa khô nhưng khi thiết kế người ta chỉ nghĩ đến nguồn lợi phát điện nên không có tác dụng cắt lũ khi gặp năm lũ lớn. Trường hợp các năm lũ vừa và lũ bé, chính việc vận hành nhà máy thủy điện theo mục tiêu kinh tế và các nguyên nhân khác còn gây tác hại thêm cho dòng chảy về phía hạ lưu. Khi dòng chảy sông Mê Công giảm về lượng, sẽ kéo theo nguy cơ tác động xấu đến chất lượng nước. Cần thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin từ khu vực trung lưu do chịu ảnh hưởng của các cơn bão sẽ vào Biển Đông, sự hình thành các áp thấp nhiệt đới, các dải hội tụ nhiệt đới vắt ngang qua thượng Lào và Việt Nam.
ĐBSCL đã có 5 năm liền gặp hạn, đặc biệt kết hợp với dòng chảy kiệt trên sông Mê Công vào các năm 2004, 2008 và 2010. Nhiều khả năng mùa khô 2011 sẽ là 1 trong những năm cực hạn cho nên ngay từ bây giờ, các cấp chính quyền và người dân cần có kế hoạch chủ động từ việc bố trí mô hình sản xuất, bổ sung các khu trữ nước cho mùa khô, có kế hoạch sử dụng nguồn nước một cách khôn ngoan, hiệu quả. Cần hạn chế tối đa diện tích sản xuất vụ Hè Thu sớm và vụ Xuân Hè vùng ven biển vì khó khăn về nguồn nước để tránh đỡ thiệt hại về kinh tế. Chính quyền địa phương cần nghĩ sớm các giải pháp và cơ chế chính sách giúp người nông dân vượt qua khó khăn đã lường thấy trước.
Lịch sử tồn tại và phát triển của Việt Nam luôn đồng hành với lịch sử phát triển điều hòa giữa đất và nước. Trước đây, chính sách về nước tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc phát triển và khai thác tài nguyên, trong đó đề cao việc xây dựng và nâng cao hiệu quả của các công trình cơ sở hạ tầng. Do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tầm nhìn và chiến lược sử dụng tài nguyên nước ở ĐBSCL bắt buộc phải quan tâm đặc biệt đến an ninh dòng chảy đã được luật hóa trong dòng chảy tối thiểu. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông, kết hợp các giải pháp công trình với phi công trình trên nền tảng thích nghi vẫn là bài toán tối ưu cho sự phát triển kinh tế xã hội bền vững ở ĐBSCL.