Biến đổi khí hậu với nguy cơ suy giảm nước mặt
Thứ sáu - 08/01/2010 05:44
Lũ lụt làm gia tăng ô nhiễm
Nguồn nước mặt nước ta đang đứng trước nhiều thách thức của biến đổi khí hậu (BĐKH). Việc nhận định rõ thách thức của BĐKH lên chất lượng nước là vô cùng cần thiết để có giải pháp bảo vệ nguồn nước - nguồn sống của nhân loại. Các nhà khoa học Trung tâm Tư vấn Khí tượng Thủy văn và Môi trường (Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường) đã phân tích ba nhân tố BĐKH là nhiệt độ tăng; mức độ và tần suất bão, lụt, hạn hán thay đổi; nước biển dâng tác động trực tiếp lên sự thay đổi chất lượng nước mặt.
Ba nguy cơ làm giảm cả lượng và chất nước mặt
TS. Trần Hồng Thái, Giám đốc Trung tâm Tư vấn Khí tượng Thủy văn và Môi trường cho biết, theo các nghiên cứu, nhiệt độ tăng dẫn đến thay đổi phân tầng nhiệt theo chiều sâu của cột nước, từ đó làm giảm quá trình vận động của nước. Tăng nhiệt độ nước ở các vùng ven bờ còn dẫn đến lắng đọng các chất khoáng và hữu cơ, gây ảnh hưởng đến chuối thức ăn của sinh vật thủy sinh.
"Nhiệt độ tăng thúc đẩy quá trình bốc hơi nước làm gia tăng nồng độ các chất ô nhiễm trong các sông suối ao hồ. Nhiệt độ cao làm tảo tăng trưởng nhanh hơn. Điều đáng nói là tảo - sinh vật tiêu thụ nhiều ôxy. Khi tảo phát triển mạnh sẽ dẫn đến hiện tượng đầm lầy hóa các thủy vực, thiếu ôxy còn phát sinh các loại khí độc như mêtan (CH4), hydro sunfit (H2S)", TS. Trần Hồng Thái giải thích.
Ở khía cạnh thứ hai của BĐKH ảnh hưởng đến nguồn nước mặt là bão, lũ, hạn hán gia tăng, các nhà khoa học lo ngại nhất là nguy cơ ô nhiễm môi trường sau các thiên tai ngày một ác liệt. Cây cối, hoa màu ngập trong nước, xác động vật bị phân hủy trong nước, phù sa từ các sông suối tràn về cùng với rác phế thải hòa trong nước lũ là nguồn ô nhiễm lớn. Thêm vào đó, nước lũ còn cuốn theo và hòa tan nhiều loại chất bẩn tích tự trong suốt những tháng mùa khô như chất bẩn từ các bãi rác, nước tồn đọng trong nhà vệ sinh, hệ thống cống rãnh, từ các kho hóa chất... Hỗn hợp này chứa hàm lượng vi sinh vật gây bệnh rất cao và được nước lũ lan truyền trên vùng diện tích rộng lớn. Ở những khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, mực nước tại các ao hồ, sông là rất thấp và nồng độ các chất dinh dưỡng, cặn lơ lửng và các loại muối rất cao, dẫn đến sự thay đổi mùi, vị của nước. Thêm vào đó, hạn hán là một nguyên nhân làm gia tăng quá trình xâm nhập mặn.
Biểu hiện rõ ràng nhất của BĐKH là nước biển dâng kèm theo sự xâm nhập của nước mặt vào nội địa, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nước cung cấp cho sinh hoạt cũng như sản xuất nông - công nghiệp. Bởi lẽ nước bị mặn hóa không sử dụng được cho sinh hoạt, sản xuất. Điều đó sẽ dẫn đến khan hiếm nước sạch. Nồng độ muối trong nước cao cũng sẽ làm giảm khả năng hoạt động của các vi sinh vật cũng như khả năng sinh trưởng của nhiều loại sinh vật.
Sớm quy hoạch chất lượng nước mặt
Đề xuất của nhóm nghiên cứu là cần xây dựng ngay các quy hoạch chất lượng nước. Quy hoạch này xác định mục đích sử dụng nước cho từng đối tượng, từng khu vực, xây dựng và cải tiến các tiêu chuẩn chất lượng nước phù hợp với từng loại hình sử dụng nước. Đồng thời cần tiến hành đánh giá nguồn nước và nhận định các nguồn gây suy thoái nước...
Nhóm nghiên cứu đã chỉ ra các giải pháp cụ thể cho vùng thường xuyên bị bão lũ và khu vực bị xâm nhập mặn. Đối với vùng bị bão lũ, cần có các chính sách cải thiện và nâng cấp mở rộng hệ thống thoát lũ, tiêu úng, xây dựng hồ chứa trước lũ, nâng cấp và bổ sung hệ thống đê biển, đê bao... Khu vực có nguy cơ xâm nhập mặn cần tăng cường nạo vét kênh mương, sửa chữa bờ bao, cống kiểm soát mặn; đắp đập tạm thời vụ, theo dõi diễn biến mặn để lấy nước vào đồng. Đồng thời tăng cường các biện pháp ngọt hóa nguồn nước, phương pháp tưới nước tiết kiệm...