Gia Lai là một tỉnh nằm trên 3 lưu vực sông Sê San, Srê Pôk và Ba-Kỳ Lộ có diện tích tự nhiên là 15.536,92 km2. Trong phạm vi tỉnh hiện nay có 77 công trình quan trắc tài nguyên nước dưới đất và 01 trạm quan trắc TNN mặt Ya Yun Hạ.
Đối với tài nguyên nước mặt
Tổng lượng mưa năm bình quân từ 1.750 – 2.500mm, trong đó lượng mưa mùa mưa (từ tháng 9 đến tháng 1) chiếm khoảng 75% tổng lượng mưa cả năm; mùa khô (từ tháng 1 - 8) lượng mưa chiếm 25% tổng lượng mưa năm. Tổng lượng dòng chảy trung bình toàn tỉnh khoảng 23 tỉ m3/năm, phân bố trên các hệ thống sông lớn.
Tại trạm Ya Yun Hạ (tọa độ địa lý: 13o42’ vĩ độ Bắc, 108o10’ kinh độ Đông) nằm trên bờ phải sông YaYun, thuộc làng Chép xã AYun huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai; thuộc lưu vực sông Ba, diện tích lưu vực khống chế là 1.150 km2; được quan trắc từ tháng 1 năm 2012. Các yếu tố quan trắc chủ yếu là nhiệt độ nước, mực nước, lưu lượng, hàm lượng chất lơ lửng và chất lượng nước.
Tổng lượng nước
Mực nước trung bình tháng 5 năm 2021 trên sông Yayun tại trạm Ya Yun Hạ là 20781cm, giảm 05cm so với tháng trước, tăng 08cm so với tháng cùng kỳ năm 2020 và giảm 14cm so với tháng 5 TBNN. Giá trị mực nước lớn nhất là 20844cm (ngày 26/5), giá trị mực nước nhỏ nhất là 20741cm (ngày 24/5).
Trong tháng 5 năm 2021, tại trạm YaYun Hạ có lưu lượng nước trung bình tháng là 10,9m3/s, giảm 1,34m3/s so với tháng trước, tăng 1,56m3/s so với tháng cùng kỳ năm 2020.
Trong tháng 5 năm 2021, tổng lượng nước trên sông YaYun chảy qua mặt cắt ngang tại trạm Ya Yun Hạ khoảng 29,2 triệu m3, giảm khoảng 2,5 triệu m3 so với tháng trước.
Chất lượng nước
Kết quả phân tích chất lượng nước sông và kết quả tính toán chất lượng nước sông theo chỉ số WQI cho thấy chất lượng nước sông Ba Ya Yun ở mức trung bình có thể sử dụng cho mục đích tưới tiêu và các mục đích tương đương khác.
Đối với tài nguyên nước dưới đất
Tài nguyên nước dưới đất trong tỉnh được phân chia thành 4 tầng chứa nước chính, bao gồm: Tầng chứa nước lỗ hổng bồi tích hiện đại (Q), tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pleistocen giữa β(qp), tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pliocen-Pleistocen dưới β(n2-qp) và Tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng vỉa các thành tạo đầm hồ trầm tích Neogen (n). Theo báo cáo thuộc dự án “Biên hội - thành lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ 1:200.000 cho các tỉnh trên toàn quốc”, tổng tài nguyên nước dự báo cho các tầng chứa nước như sau: Tầng chứa nước (Q) là 654.795 m3/ngày, tầng chứa nước (βqp) là 229.944 m3/ngày, tầng chứa nước β(n2-qp) là 5.373.122 m3/ngày, tầng chứa nước (n) là 91.165 m3/ngày.
Tầng chứa nước lỗ hổng bồi tích hiện đại (Q)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 5 có xu thế dâng so với tháng 4. Giá trị dâng cao nhất là 0,36m tại xã Ia Piar, huyện Phú Thiện (CR313) và hạ thấp nhất là 0,54m tại xã Hra, huyện Măng Yang (LK12T).
Mực nước trung bình tháng nông nhất là -2,43m tại TT.Phú Thiện, huyện Phú Thiện (CB1-IV) và trung bình tháng sâu nhất là -6,94m TT.Phú Thiện, huyện Phú Thiện (LK151T). Trong tháng 6 và tháng 7 mực nước có xu hướng dâng.
Tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pleistocen giữa β(qp)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 5 có xu thế hạ so với tháng 4. Giá trị hạ thấp nhất là 1,12m tại P.Yên Thế, TP.Pleiku (C3b). Giá trị dâng là 0,45m tại xã Chư Á, TP.Pleiku (CB5-I).
Mực nước trung bình tháng nông nhất là -2,72m tại xã Biển Hồ, TP.Pleiku (LK160T) và trung bình sâu nhất là -25,80m tại P.Yên Thế, TP.Pleiku (C3b). Trong tháng 6 và tháng 7 mực nước có xu hướng dâng.
Tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pliocen-Pleistocen dưới β(n2-qp)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 5 có xu thế hạ so với tháng 4. Giá trị hạ thấp nhất là 1,37m tại xã Ia Hrú, huyện Chư Sê (LK169T) và dâng cao nhất là 1,02m tại P.Hoa Lư, TP.Pleiku (LK168T).
Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,21m tại xã Ia Drăng, huyện Chư Prông (LK144T) và trung bình tháng sâu nhất là -32,32m tại TT.Chư Ty, huyện Đức Cơ (LK165T). Trong tháng 6 và tháng 7 mực nước có xu hướng dâng.
Tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng vỉa các thành tạo đầm hồ trầm tích Neogen (n)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 5 có xu thế hạ so với tháng 4. Giá trị hạ thấp nhất là 0,26m tại xã Chư Rcam, huyện Krông Pa (LK39T). Giá trị dâng cao nhất là 0,12m tại TT.Phú Thiện, huyện Phú Thiện (C7c).
Mực nước trung bình tháng nông nhất là -1,37m tại xã Ialy, huyện Chư Pah (LK59T) và trung bình tháng sâu nhất là -20,74m tại xã Ialy, huyện Chư Pah (LK62T). Trong tháng 6 và tháng 7 mực nước có xu hướng dâng.
CHI TIẾT KẾT QUẢ QUAN TRẮC TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT TỈNH GIA LAI THÁNG 6 NĂM 2021 XIN MỜI XEM
TẠI ĐÂY.