Vùng Bắc Trung Bộ có đã có 121 công trình quan trắc ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Công trình quan trắc tập trung vào các tầng chứa nước chính theo thứ tự từ trên xuống là tầng chứa nước lỗ hổng Holocene (qh) và Pleistocene (qp). Trên cơ sở kết quả quan trắc tài nguyên nước dưới đất, diễn biến tài nguyên nước dưới đất được thể hiện chi tiết như sau:
Tầng chứa nước Holocene (qh)
Mực nước trung bình quý I năm 2020 có xu thế dâng chiếm ưu thế so với quý I năm 2019, với 32/66 công trình có mực nước dâng tập trung chủ yếu từ Nghệ An đến Quảng Bình, 26/66 công trình có mực nước hạ nằm ở tỉnh Thanh Hóa, vùng núi tỉnh Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và 8/66 công trình có mực nước dâng hạ không đáng kể. Giá trị mực nước dâng cao nhất là 0,99m tại TT. Phố Châu, huyện Hương Sơn (QT2a-HS) và hạ thấp nhất là 1,56m tại xã Xuân Hòa, huyện Thọ Xuân (QT4-TH).
Mực nước trung bình quý nông nhất là -0,13m tại xã Thạch Đỉnh, huyện Thạch Hà (QT7-HT) và sâu nhất là -14,67m tại xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp (QT2-HÐ). Diễn biến mực nước dưới đất trung bình quý I so với cùng quý 5 năm trước có xu thế dâng.
Nhìn chung, độ mặn của nước mùa mưa 2019 tại đa số các công trình quan trắc nhỏ hơn 1500mg/l (nước nhạt). Tuy nhiên một số nơi vượt quá giới hạn cho phép nước bị lợ hoặc mặn như tại Nghệ An, Thừa Thiên Huế. Độ mặn từ 1500 - 3000mg/l (nước lợ) tại các công trình quan trắc thuộc xã Quỳnh Thạch, huyện Quỳnh Lưu (QT2a-NA), xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy (QT4a-H). Độ mặn > 3000mg/l (nước mặn) phân bố tại công trình quan trắc thuộc xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu (QT3a-NA), xã Vĩnh Thanh, huyện Yên Thanh (QT4a-NA), và xã Nghi Vạn, huyện Nghi Lộc (QT10a-NA).
Tầng chứa nước Pleistocene (qp)
Diễn biến mực nước dưới đất quý I năm 2020 so với quý I năm 2019 mực nước có xu thế hạ với 42/71 công trình có mực nước hạ tập trung chủ yếu ở khu vực tỉnh Thanh Hóa, vùng núi tỉnh Nghệ An và phía Nam tỉnh Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên khu vực ven biển tỉnh Nghệ An, phía Bắc tỉnh Quảng Bình và tỉnh Ha Tĩnh mực nước có xu thế dâng và dâng hạ không đáng kể, với 15/71 công trình có mực nước dâng và 14/71 công trình có mực nước dâng hạ không đáng kể. Giá trị hạ thấp nhất là 1,59m tại xã Xuân Hòa, huyện Thọ Xuân (QT4a-TH) và giá trị dâng cao nhất là 0,93m tại TT. Phố Châu, huyện Hương Sơn (QT2b-HS).
Mực nước trung bình quý nông nhất là 0,16m tại xã Phú Xuân, huyện Phú Vang (QT3b-H) và sâu nhất là -13,32m tại xã Hùng Sơn, huyện Anh Sơn (QT2a-CC). Diễn biến mực nước dưới đất trung bình quý I so với cùng quý 5 năm trước có xu thế không rõ ràng.
Nhìn chung, độ mặn của nước mùa mưa 2019 tại đa số các công trình quan trắc nhỏ hơn 1500mg/l (nước nhạt). Tuy nhiên một số nơi vượt quá giới hạn cho phép nước bị lợ hoặc mặn. Độ mặn từ 1500 - 3000mg/l (nước lợ) tại các công trình quan trắc thuộc xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc (QT9-H) và xã Hải Khê, huyện Hải Lăng (QT10b-QT). Độ mặn > 3000mg/l (nước mặn) phân bố tại công trình quan trắc thuộc xã Triệu Tài, huyện Triệu Phong (QT8b-QT), P. Trường Sơn, TP. Sầm Sơn (QT9a-TH), xã Nga Hưng, huyện Nga Sơn (QT13a-TH), xã Thạch Kênh, huyện Thạch Hà (QT2a-HT), xã Quỳnh Thạch, huyện Quỳnh Lưu (QT2b-NA), Phường Quảng Phúc, TX. Ba Đồn (QT4b-QB), Phường Nghi Thu, TX. Cửa Lò (QT8b NA), xã Nghi Thịnh, huyện Nghi Lộc (QT9b-NA) và xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy (QT4b-H).
CHI TIẾT KẾT QUẢ QUAN TRẮC TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG BẮC TRUNG BỘ QUÝ I NĂM 2020 XIN MỜI XEM
TẠI ĐÂY.