Các đợt nắng nóng có khả năng tập trung cuối tháng 5-7/2020 ở Bắc Bộ, từ nửa cuối tháng 5-8/2020 tại khu vực Bắc và Trung Trung Bộ.
Về lượng mưa, tổng lượng mưa (TLM) tại Bắc Bộ vào tháng 6/2020 phổ biến ở mức cao hơn từ 10-25% so với TBNN; riêng khu vực Đồng bằng Bắc Bộ xấp xỉ so với TBNN. Từ tháng 7-9/2020, TLM phổ biến xấp xỉ so với TBNN. Tháng 10/2020, TLM phổ biến xấp xỉ so với TBNN, riêng khu vực Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ, TLM cao hơn từ 10-25% so với TBNN. Tháng 11/2020 phổ biến thấp hơn từ 10-25% so với TBNN, riêng khu vực Tây Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ phổ biến xấp xỉ so với TBNN.
Khu vực Bắc Trung Bộ: Tháng 6/2020, TLM phổ biến thấp hơn từ 10-25% so với TBNN.Từ tháng 7-9 và tháng 11/2020 phổ biến xấp xỉ so với TBNN, riêng tháng 10/2020, TLM ở mức cao hơn từ 10-25% so với TBNN.
Khu vực Trung và Nam Trung Bộ: Tháng 6/2020, TLM phổ biến thấp hơn từ 10-25% so với TBNN.Tháng 7-8 và tháng 10-11/2020, TLM phổ biến cao hơn từ 10-40% so với TBNN, riêng tháng 9/2020 ở mức xấp xỉ so với TBNN cùng thời kỳ.
Mùa mưa khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ có khả năng bắt đầu vào khoảng 10 ngày cuối tháng 5/2020. Từ tháng 6-9/2020, TLM phổ biến ở mức xấp xỉ so với TBNN cùng thời kỳ. Sang tháng 10/2020, TLM phổ biến cao hơn từ 15-30% so với TBNN. Tháng 11/2020, khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có TLM cao hơn từ 20-40% so với TBNN; khu vực Tây Nam Bộ TLM phổ biến xấp xỉ so với TBNN.
Về thủy văn, nguồn nước từ tháng 6-11/2020 trên các lưu vực sông tại khu vực Bắc Bộ thiếu hụt từ 20-30%, hạ lưu sông Lô và sông Hồng từ 30-70%, riêng thượng lưu lưu vực sông Gâm xấp xỉ TBNN. Đỉnh lũ năm 2020 trên các sông phổ biến ở mức BĐ1-BĐ2, cao hơn năm 2019, riêng trên sông Thao, sông Hoàng Long và các sông suối nhỏ từ BĐ2-BĐ3. Mực nước hạ lưu sông Hồng tại Hà Nội và hạ lưu sông Thái Bình ở mức dưới BĐ1. Lũ quét, sạt lở đất có nguy cơ cao xảy ra tại khu vực vùng núi, đặc biệt khu vực Tây Bắc.
Khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên: Nửa cuối tháng 5/2020, trên thượng nguồn các sông từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên Huế có khả năng xuất hiện 01 đợt dao động; hạ lưu và các sông khác ở Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên biến đổi chậm và ở mức thấp. Lượng dòng chảy trên các sông ở Trung Bộ, Tây Nguyên ở mức thiếu hụt so với TBNN cùng kỳ từ 25-80%, một số sông thiếu hụt trên 85%. Trong thời gian này, tình trạng hạn hán thiếu nước cục bộ tiếp tục xảy ra tại các tỉnh Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên; đặc biệt nghiêm trọng hơn tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông.
Từ tháng 6 đến tháng 8/2020, trên các sông từ Thanh Hóa đến Quảng Bình và khu vực Tây Nguyên khả năng xuất hiện 02-03 đợt lũ vừa và nhỏ, đỉnh lũ có khả năng ở mức báo động (BĐ)1-BĐ2, trên một số sông suối nhỏ có khả năng lên trên BĐ2; mực nước các sông khác ở Trung và Nam Trung Bộ biến đổi chậm. Lượng dòng chảy trên các sông phổ biến ở mức thiếu hụt từ 20-60% so với TBNN, một số sông thiếu hụt trên 70%, trên một số sông có khả năng xuất hiện mực nước thấp nhất trong chuỗi số liệu quan trắc. Trong thời gian này tình trạng khô hạn thiếu nước, xâm nhập mặn có khả năng lan rộng tại các tỉnh ven biển Trung Bộ ở mức tương đương mùa khô năm 2019, đặc biệt tại các tỉnh từ Quảng Trị đến Ninh Thuận.
Mùa lũ năm 2020, trên các sông ở khu vực Tây Nguyên đến muộn hơn TBNN, các sông ở khu vực Trung Bộ tương đương TBNN. Đỉnh lũ năm 2020 trên các sông ở khu vực Trung Bộ và Bắc Tây Nguyên có khả năng ở mức cao hơn năm 2019. Đỉnh lũ năm trên hạ lưu các sông chính ở Bắc Trung Bộ ở mức BĐ1- BĐ2, xấp xỉ đỉnh lũ TBNN; các sông từ Quảng Bình đến Bình Thuận và khu vực Tây Nguyên ở mức BĐ2-BĐ3, một số sông trên BĐ3, tương đương đỉnh lũ TBNN. Trên các sông suối nhỏ, vùng thượng lưu các sông khả năng xuất hiện lũ lớn, lũ quét và sạt lở đất.
Khu vực Nam Bộ: Nửa cuối tháng 5/2020, dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Công về Đồng bằng sông Cửu Long ở mức cao hơn TBNN từ 5-20%, mực nước đầu nguồn Cửu Long ở mức cao hơn TBNN từ 0,1-0,3m. Xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục giảm dần.
Trong năm 2020, ít có khả năng xuất hiện lũ sớm ở Đồng bằng Nam Bộ. Đỉnh lũ năm ở đầu nguồn sông Cửu Long trên sông Tiền tại Tân Châu và sông Hậu tại Châu Đốc ở mức BĐ1-BĐ2, thấp hơn đỉnh lũ TBNN từ 0,2-0,4m. Thời gian xuất hiện đỉnh lũ năm vào nửa cuối tháng 9.