Ngày Nước thế giới 2018: Dựa vào tự nhiên để bảo vệ nguồn nước
- Thứ năm - 22/03/2018 15:44
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này

Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Hoàng Văn Bẩy
PV: Ngày Nước thế giới năm nay lấy chủ đề là “Nước với Thiên nhiên”, ông Hoàng Văn Bẩy, ông có thể cho biết cụ thể về chủ đề này?
Cục trưởng Hoàng Văn Bẩy : Nước là một trong những thành tố quan trọng nhất của môi trường sống, của thiên nhiên và ngược lại thiên nhiên trù phú sẽ là yếu tố quan trọng để bảo đảm một nguồn nước dồi dào và trong lành. Tuy nhiên, theo thống kê của Chương trình Nước Liên Hợp Quốc, 2/3 diện tích rừng đã bị suy giảm; 2/3 diện tích đất ngập nước đã bị biến mất trên phạm vi toàn cầu và hậu quả đã hiện hữu.
Hằng năm, có đến 4 tỷ người bị ảnh hưởng bởi thiên tai (lũ lụt, hạn hạn hay bão) và thiệt hại ước tính khoảng 40 tỷ USD/năm; 40 tỷ tấn phù sa bị rửa trôi theo các dòng sông; 2,1 tỷ người không tiếp cận được dịch vụ cấp nước an toàn và 80% lượng nước thải chưa được xử lý hoặc xủ lý chưa đạt chuẩn đang hàng ngày xả ra sông suối, đại dương.
Số lượng việc làm của các ngành du lịch, giải trí, thủy sản, lâm nghiệp, nông nghiệp gắn với các di sản thế giới liên quan đến nước, các hệ sinh thái tự nhiên đang bị đe dọa do sự suy giảm nguồn nước.
Việt Nam cũng đang phải đối mặt với các thách thức trên, trong những năm gần đây, hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lut, hạn hán, xâm nhập mặn xảy ra thường xuyên với mức độ ngày càng nghiêm trọng dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước, suy giảm diện tích rừng, chất lượng rừng và các hệ sinh thái.
Để góp phần giải quyết những vấn có tính toàn cầu nêu trên, đồng thời nhấn mạnh mối quan hệ, tác động tương hỗ mật thiết giữa thiên nhiên với nước, cũng như tầm quan trọng của việc lựa chọn các giải pháp để giải quyết các vấn đề về tài nguyên, Liên Hợp Quốc chọn chủ đề "Nước với thiên nhiên" cho Ngày nước thế giới 2018, với thông điệp chủ đạo là: Ứng dụng các giải pháp có sẵn trong tự nhiên để góp phần giảm thiểu lũ, hạn hán và ô nhiễm nguồn nước, thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững số 6: “Đảm bảo nguồn cung cấp và quản lý bền vững tài nguyên nước và các điều kiện vệ sinh an toàn cho tất cả mọi người”.

Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Hoàng Văn Bẩy

Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Hoàng Văn Bẩy
PV: Nguồn nước của Việt Nam và thế giới đang chịu không ít tác động từ thiên nhiên và con người. Ông có thể cho biết, Việt Nam đang đối mặt với những thách thức nào từ nguồn nước?
Cục trưởng Hoàng Văn Bẩy : Việt Nam có 108 lưu vực sông với khoảng 3.450 sông, suối với chiều dài từ 10 km trở lên. Với tổng lượng dòng chảy hàng năm khoảng 830-840 tỉ m3, trong đó tập trung chủ yếu (khoảng 57%) ở lưu vực sông Cửu Long, hơn 16% ở lưu vực sông Hồng-Thái Bình, hơn 4% ở lưu vực sông Đồng Nai, còn lại ở các lưu vực sông còn lại.
Mặc dù tổng lượng nước hàng năm năm tương đối lớn, nhưng tập trung chủ yếu trong mùa mưa, chỉ kéo dài 3 tháng, 9 tháng còn lại lượng nước chỉ chiếm từ 10 đến khoảng 15%.
Về nước dưới đất, Việt Nam cũng có tiềm năng khá lớn về nguồn nước dưới đất, nhưng tập trung chủ yếu ở các khu vực đồng bằng Bắc bộ, đồng bằng Nam bộ và khu vực Tây Nguyên. Tổng trữ lượng tiềm năng nước dưới đất trên toàn lãnh thổ ước tính khoảng 63 tỷ m3/năm.
Phần lớn các hệ thống sông lớn của Việt Nam đều là các sông xuyên biên giới mà Việt Nam là quốc gia ở hạ nguồn. Tổng lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam khoảng trên 500 tỷ m3 (chiếm khoảng 63% tổng lượng nước trung bình hàng năm của toàn quốc), trong đó, lớn nhất là sông Cửu Long, trên 400 tỷ m3, chiếm khoảng 84% tổng lượng nước chảy xuyên biên giới vào nước ta; Sông Hồng khoảng 50 tỷ m3, bằng khoảng 10%.
Do phụ thuộc mạnh mẽ vào nguồn nước từ ngoài lãnh thổ nên việc gia tăng các hoạt động khai thác, sử dụng nước của các quốc gia thượng nguồn trong những năm gần đây tiềm ẩn các nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến tài nguyên nước ở Việt Nam hiện tại và tương lai.
Trong khi đó, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa mạnh mẽ của chính Việt Nam trong những năm qua cũng tạo ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng, trữ lượng nguồn nước do nhu cầu nước cho sản xuất và dân sinh ngày càng tăng. Ước tính, nhu cầu khai thác, sử dụng nước ở nước ta là khoảng 130-150 tỷ m3/năm, chiếm tới gần 50% lượng nước sản sinh trên lãnh thổ nước ta hoặc tương đương với gần 90% nguồn nước sẵn có trong mùa khô (khoảng 170 tỷ m3).
Tình trạng suy thoái, cạn kiệt nguồn nước mặt, nước ngầm, thiếu nước, khan hiếm nước càng trở nên phổ biến hơn. Cạnh tranh khai thác, sử dụng nước cho phát triển thủy điện và các nhu cầu tiêu thụ nước khác, đặc biệt cho sản xuất nông nghiệp ở hạ du có xu hướng ngày càng gay gắt hơn, nhất là trong mùa khô.
Việc suy giảm rừng đầu nguồn, diện tích rừng không được cải thiện, chất lượng rừng kém làm suy giảm nguồn sinh thủy của các sông, suối, hồ chứa.
Trong khi đó, tình trạng khai thác, sử dụng nước lẵng phí, kém hiệu quả còn diễn ra khá phổ biến.
Việc khai thác, sử dụng nước chưa thực sự bền vững, thiếu hợp lý chưa bảo đảm việc sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, hiệu quả tài nguyên nước dẫn đến tình trạng khai thác quá mức ở một số khu vực, lưu vực sông.

Bạn có biết 2/3 diện tích rừng trên thế giới đã bị suy giảm?

Bạn có biết 2/3 diện tích rừng trên thế giới đã bị suy giảm?
PV: Thực tế nguồn nước ở các khu vực phía Nam như ĐBSCL và Tây Nguyên những năm qua chịu không ít những tác động tiêu cực. Khô hạn, xâm nhập mặn… ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống của người dân. Ông có thể phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng này?
Cục trưởng Hoàng Văn Bẩy : Trong những năm gần đây, do tác động của El Nino nên mùa khô kéo dài, mùa mưa đến muộn và kết thúc sớm. Toàn bộ lưu vực sông Mê Công phải đối mặt với một mùa khô rất khắc nghiệt, vùng ĐBSCL đang phải chịu các tác động nghiêm trọng của hạn hán, xâm nhập mặn lịch sử (nơi xa nhất hơn 90km) và có diễn biến cực kỳ phức tạp. Tổng lượng mưa 2015 trên lưu vực thiếu hụt so với trung bình nhiều năm (TBNN) khoảng 30%. Đầu mùa khô 2016, tình hình mưa có xu thế giảm mạnh và đầu mùa khô hầu như không có mưa hoặc mưa rất ít. Dòng chảy trong mùa lũ năm 2015 nhỏ hơn TBNN, có thời gian còn nhỏ hơn cả mức lịch sử. Dòng chảy sông Mê Công vào ĐBSCL trong mùa khô 2016 đạt mức nhỏ nhất, thậm chí đạt mức lịch sử.
Tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn nêu trên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh ven biển Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang và Cà Mau có nhiều diện tích cây trồng bị thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn. Hạn hán, xâm nhập mặn cũng đã ảnh hưởng lớn đến việc cấp nước sinh hoạt tại một số khu vực sử dụng nước mặt, nhất là các vùng chưa có công trình cấp nước, tập trung ở các khu vực cửa sông, ven biển, như: Cà Mau, Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Long An, Tiền Giang, Bạc Liêu.
Theo Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng, với kịch bản trung bình, trong tương lại xâm nhập mặn còn lấn sâu hơn nhiều so với mùa cạn vừa rồi: 67-70 km trên sông Cửu Long, 125 km trên sông Vàm Cỏ Tây đối với giai đoạn 2020-2039 và 70 -75 km trên sông Cửu Long, 129 km trên sông Vàm Cỏ Tây đối với giai đoạn 2040-2059.

Bạn có biết 80% lượng nước thải trên thế giới chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt quy chuẩn đang xả ra sông suối và đại dương?

Bạn có biết 80% lượng nước thải trên thế giới chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt quy chuẩn đang xả ra sông suối và đại dương?
Như vậy, trong thời gian tới, với tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, cùng với tác động của các hoạt động khai thác, sử dụng nước của các quốc gia thượng nguồn sông Mê Công, đặc biệt là việc xây dựng, vận hành các hồ chứa thủy điện cả trên dòng chính và dòng nhánh, đồng bằng sông Cửu Long của chúng ta có nguy cơ phải thường xuyên đối mặt với tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn khốc liệt hơn những gì đã, đang xảy ra kể cả về quy mô, mức độ và thời gian nếu chúng ta không có các giải pháp căn cơ có tính chiến lược, lâu dài. Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay có thể kể ra như sau:
Thứ nhất, hiện tượng El Nino mạnh và kéo dài kỷ lục từ năm 2014 đến nay dẫn đến lượng mưa trên toàn lưu vực suy giảm mạnh (khoảng 45%) so với lượng mưa TBNN. So với TBNN cùng thời kỳ, lượng mưa tháng 1 năm 2016 ở trên toàn lưu vực sông Mê Công đều sụt giảm nghiêm trọng: sụt giảm 24% ở thượng lưu thuộc Vân Nam, Trung Quốc; 85% ở phần trung lưu thuộc Thái Lan, Lào, Tây Nguyên của Việt Nam và Ở Biển Hồ (Tonle Sap) và châu thổ Mê Công thuộc Cămpuchia cũng sụt giảm tới 85%. Riêng đồng bằng sông Cửu Long của nước ta, lượng mưa sụt giảm 30%, trong tháng 12/2015 còn tháng 01/2016 sụt giảm tới 100% so với TBNN.
Thứ hai, chế độ vận hành, điều tiết của hệ thống các hồ chứa trên thượng nguồn, kể cả trên dòng chính và dòng nhánh. Ở thượng nguồn phía Trung Quốc có riêng 02 hồ chứa Tiểu Loan và Nộ Trác Độ đã có tổng dung tích tới 22 tỷ m3, còn trên dòng các dòng nhánh (chủ yếu thuộc Lào) các hồ chứa cũng có dung tích khoảng 20 tỷ m3. Với tổng dung tích khoảng 42 tỷ m3, các hồ chứa nêu trên có khả năng điều tiết dòng chảy rất lớn. Nếu chia đều lượng nước trên để vận hành, điều tiết liên tục trong 6 tháng mùa khô, thì hàng ngày có thể bổ sung thêm khoảng 2700m3/s - đây là một lượng nước quyết định đến dòng chính sông Mê Công và dòng chảy về Việt Nam. Vì vậy, nếu các hồ này không vận hành phát điện, kèm theo đó là xả nước xuống hạ du, thì dòng chảy về đồng bằng sông Cửu Long của chúng ta sẽ sụt giảm nghiêm trọng.
Thứ ba, suy giảm dòng chảy trên Biển Hồ: tại trạm thủy văn Prếc-đam kiểm soát dòng chảy của Biển Hồ trên sông Tole Sap cho thấy cuối mùa lũ năm 2015, mực nước thấp chỉ đạt 50% so với TBNN, dòng chảy tháng 01/2016 sụt giảm 71%, tháng 02/2016 sụt giảm 77% so với TBNN.
Thứ tư, gia tăng khai thác ở khu vực trung lưu: gần đây báo chí Thái Lan cho biết có hai trạm bơm dã chiến đặt tại cửa sông Huổi Luông và Na-khom Pha-nôm có tổng công suất khoảng 25-30 m3/s. Ngoài ra, Cục tưới Hoàng gia Thái Lan còn có một số trạm bơm dã chiến khác dọc sông Mê Công, ước tính lượng nước khai thác lên tới 10% dòng chảy mùa khô ở khu vực này.
Thứ năm, dòng chảy đến Tân Châu, Châu Đốc trước khi vào Đồng bằng sông Cửu Long sụt giảm: Do lượng mưa sụt giảm, dẫn đến dòng chảy trên sông sụt giảm, số liệu quan trắc dòng chảy tại Tân Châu, Châu Đốc cho thấy tháng 12/2015 sụt giảm 50%, tháng 01/2016 sụt giảm 45%, tháng 02/2016 sụt giảm 32%, tháng 3/2016 sụt giảm 24% so với TBNN; mực nước trung bình tại Tân Châu, Châu đốc sụt giảm nghiêm trọng chỉ đạt 0,2 đến 0,4m.
Thứ sáu, triều cường tăng cao cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến gia tăng xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua. Số liệu thực đo thủy triều biển Đông mùa khô năm 2016 cho thấy đỉnh triều ngang bằng đỉnh triều lớn nhất lịch sử, chân triều cao hơn chân triều lớn nhất khoảng 0,1-0,2m và trung bình triều cao hơn trung bình triều nhiều năm từ 0,3-0,6m; biển Tây cũng có chân triều cao hơn chân triều lớn nhất khoảng 0,2-0,3m và trung bình triều cao hơn trung bình triều nhiều năm từ 0,4-0,6m.


PV: Những giải pháp nào cho thực trạng nguồn nước hiện nay tại Việt Nam, thưa ông Hoàng Văn Bẩy?
Cục trưởng Hoàng Văn Bẩy : Từ sau khi Luật Tài nguyên nước năm 2012 có hiệu lực đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hoàn thiện và trình Chính phủ phê duyệt 06 Nghị định và ban hành 30 Thông tư của Bộ. Điều này có thể khẳng định hệ thống pháp luật về tài nguyên nước đã được xây dựng khá toàn diện, đáp ứng yêu cầu quản lý tài nguyên nước trong thời gián tới. Vấn đề còn lại là phải tập trung triển khai trên thực tế để đưa các chính sách, biện pháp quản lý đó vào cuộc sống, bảo đảm quản lý tài nguyên nước có hiệu quả. Trong đó, tập trung vào các giải pháp mang tính trọng tâm sau đây:
Thứ nhất, xây dựng và phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, QHTN LVS Hồng, Cửu Long và các lưu vực sông lớn.
Thứ hai, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra; tăng cường giám sát vệc khai thác sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước thông qua hình thức giám sát tự động, trực tuyến.
Thứ ba, tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia nhằm nắm chắc nguồn tài nguyên nước Việt Nam và hiện trạng KTSD XNT vào nguồn nước.
Thứ tư, giám sát, chỉ đạo việc vận hành các hồ chứa lớn quan trọng tuân thủ nghiêm ngặt quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 LVS quan trọng đã được TTg ban hành.
Thứ năm, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các biện pháp sử dụng nước tiêt kiệm hiệu quả đến tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức cá nhân và cộng đồng dân cư.
Thứ sáu, Bộ TNMT đã trình Chính phủ thành lập 05 lưu vực sông (tờ trình số 24/TTr-BTNMT ngày 30 tháng 5 năm 2017) để sớm thành lập và đưa vào hoạt động các Ủy ban lưu vực sông để thực hiện có hiệu quả cơ chế điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước.
Đồng thời, đổi mới cơ chế, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; tăng cường năng lực, bao gồm cả tổ chức, bộ máy, cơ sở vật chất, công cụ kỹ thuật, thông tin cho các cơ quan quản lý chuyên ngành về tài nguyên nước từ trung ương đến các cấp ở địa phương./.