Những vấn đề cấp bách về tài nguyên nước tại Việt Nam

Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thái Lai phát biểu tại buổi Tọa đàm

Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thái Lai phát biểu tại buổi Tọa đàm

Ngày 28/11, tại Hà Nội đã đã diễn ra buổi Tọa đàm về đề tài nước Việt Nam - Hungary. Tại buổi Tọa đàm, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thái Lai đã có bài phát biểu trao đổi về những vấn đề cấp bách về tài nguyên nước Việt Nam. Trang thông tin điện tử Cục Quản lý tài nguyên nước trân trọng giới thiệu toàn văn Bài phát biểu của Thứ trưởng Nguyễn Thái Lai tại buổi Tọa đàm:

Kính thưa ngài Ader János, Tổng thống nước Cộng hòa Hungary
Kính thưa đồng chí Vũ Đức Đam, Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thưa quý vị đại biểu!
 
Chúng ta đều biết, nước là một vấn đề xuyên suốt kết nối chặt chẽ với tất cả mọi lĩnh vực ưu tiên cần hợp tác giải quyết từ góc độ mỗi quốc gia đến cấp độ toàn cầu. Mặc dù là nguồn tài nguyên có thể tái tạo nhưng tài nguyên nước không phải là vô hạn. Theo đánh giá của nhiều cơ quan nghiên cứu về nước đến 2025, khoảng 35% dân số thế giới sẽ rơi vào tình cảnh thiếu nước nghiêm trọng. Vì vậy, mối lo về nước không phải của riêng một quốc gia nào. Cùng với sự gia tăng dân số và khát vọng cải thiện cuộc sống của mỗi quốc gia và của từng cá nhân thì nhu cầu về nước ngày càng gia tăng là điều tất yếu.


Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thái Lai phát biểu tại buổi Tọa đàm
 
Việt Nam có 108 lưu vực sông với khoảng 3.450 sông, suối tương đối lớn. Tổng lượng nước mặt trung bình năm của Việt Nam khoảng 830 tỉ m3 được tập trung chủ yếu trên 9 lưu vực sông lớn, bao gồm: Hồng, Thái Bình, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Đồng Nai và sông Cửu Long. Tuy nhiên, khoảng 63% nguồn nước mặt của Việt Nam (tương ứng với 520 tỷ m3) được sản sinh ở nước ngoài, chỉ có gần 310 tỉ m3 mỗi năm được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Tổng trữ lượng tiềm năng nguồn nước dưới đất khoảng 63 tỷ m3/năm. Tổng lượng nước đang được khai thác, sử dụng hàng năm khoảng 80,6 tỷ m3, chiếm xấp xỉ 10% tổng lượng nước hiện có của cả nước. Trong đó, trên 80% lượng nước được sử dụng cho mục đích nông nghiệp (khoảng 65 tỷ m3/năm). Nước dưới đất được khai thác sử dụng chủ yếu cho cấp nước sinh hoạt và công nghiệp với gần 40% lượng nước cấp cho đô thị và khoảng gần 80% lượng nước sử dụng cho sinh hoạt nông thôn. 
 
Nếu chỉ xét riêng tổng lượng nước hàng năm của cả nước, có thể lầm tưởng rằng Việt Nam là quốc gia có tài nguyên nước dồi dào. Tuy nhiên, theo chỉ tiêu đánh giá của Hội Tài nguyên nước Quốc tế thì quốc gia nào có lượng nước bình quân đầu người dưới 4.000 m3/người/năm là quốc gia thiếu nước, như vậy, nếu chỉ tính riêng lượng tài nguyên nước mặt sản sinh trên lãnh thổ thì ở thời điểm hiện nay, Việt Nam đã thuộc số các quốc gia thiếu nước và sẽ gặp phải rất nhiều thách thức về tài nguyên nước trong tương lai gần. Xét theo đặc điểm phân bố lượng nước theo thời gian, không gian cùng với đặc điểm phân bố dân cư, phát triển kinh tế, mức độ khai thác, sử dụng nước có thể thấy rằng tài nguyên nước của Việt Nam đang phải chịu rất nhiều sức ép, tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia. 


Quang cảnh buổi Tọa đàm
 
Thưa quý vị đại biểu!
 
Cũng như nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến nguồn nước. Một mặt, nguồn nước, kể cả nước sông, nước ngầm, ở nhiều nơi suy giảm nghiêm trọng; mặt khác, tình trạng lũ lụt, nước biển dâng, triều cường, sạt lở bờ biển ngày càng trầm trọng...; phát triển kinh tế, xã hội, tăng dân số, làm phát sinh những mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và đang đứng trước nguy cơ suy thoái, cạn kiệt do tác động của biến đổi khí hậu và gia tăng khai thác, sử dụng nước ở quốc gia ở thượng nguồn. Điều đó được thể hiện trên một số mặt sau:
 
- Thứ nhất, tài nguyên nước Việt Nam phụ thuộc mạnh mẽ vào các nguồn nước quốc tế và đang đứng trước thách thức về an ninh nguồn nước do các quốc gia thượng nguồn tăng cường khai thác nguồn nước
 
Phần lớn các hệ thống sông lớn của Việt Nam đều là các sông có liên quan đến nước ngoài. Phần diện tích nằm ngoài lãnh thổ của các lưu vực sông quốc tế chiếm hơn 70% tổng diện tích của toàn bộ các lưu vực sông. Trong bối cảnh các nước ở thượng lưu đang tăng cường xây dựng các công trình thủy điện, chuyển nước và xây dựng nhiều công trình lấy nước, chắc chắn nguồn nước chảy về Việt Nam sẽ ngày càng suy giảm và Việt Nam sẽ không chủ động, phụ thuộc vào các nước ở thượng lưu.
 
- Hai là, tài nguyên nước phân bố không đều theo cả không gian và thời gian đã dẫn đến xuất hiện các vấn đề khan hiếm và thiếu nước nước trong mùa khô.
 
Theo không gian, khoảng 60% nước mặt Việt Nam thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, hơn 20% thuộc sông Hồng và Đồng Nai và lượng nước tập trung chủ yếu vào mùa mưa. Theo thời gian, mùa khô thường kéo dài từ 6 đến 9 tháng, lượng dòng chảy tự nhiên trong mùa khô chỉ chiếm 20-30% tổng lượng dòng chảy cả năm. Phân bố lượng nước giữa các năm cũng biến đổi rất lớn, trung bình cứ 100 năm thì có 5 năm lượng nước chỉ bằng khoảng 70-75% lượng nước trung bình nêu trên.
 
- Ba là, việc khai thác sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý và thiếu bền vững dẫn đến tình trạng suy giảm tài nguyên nước trong khi hiệu quả sử dụng nước còn thấp.
 
Việc khai thác các hồ chứa thủy lợi cho tưới nông nghiệp, thủy điện cho năng lượng đang gây ra nhiều vấn đề về chia sẻ nước trên lưu vực, cấp nước và duy trì dòng chảy môi trường hạ du. Việc khai thác nước dưới đất thiếu quy hoạch, khai thác quá mức là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng sụt lún nền đất cục bộ ở một số đô thị như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số khu vực vùng đồng bằng sông Cửu Long.
 
- Bốn là, nhu cầu sử dụng nước gia tăng trong khi nguồn nước có nguy cơ bị ô nhiễm, suy thoái, khan hiếm, cạn kiệt.
 
Nguồn nước mặt ở nhiều khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng nghề đều đã có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng, như lưu vực sông Nhuệ Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai - Sài Gòn. Nhiễm bẩn, ô nhiễm nguồn nước dưới đất từ ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm đất; nhiễm mặn, cạn kiệt nguồn nước dưới đất do khai thác nước có xu hướng gia tăng nhất là tại các khu vực đô thị, khu dân cư, làng nghề, ven biển của đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ, ven biển miền Trung.
 
Vấn đề ô nhiễm Asen trong nguồn nước dưới đất là một trong nhưng nhiệm vụ quan trọng cần giải quyết của Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu, phân tích, điều tra và đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường từ gần 323 ngàn mẫu phân tích tại 6938 xã trên địa bàn 660 huyện thuộc 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, có 12,5% số mẫu có hàm lượng Asen từ 0,05 mg/l trở lên, vùng đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ cao nhất (18,7%), vùng Tây Bắc có tỷ lệ thấp nhất (0,1%). Có 1.385 xã, trên địa bàn 54 tỉnh (chiếm 12,5%) phát hiện ít nhất một mẫu có hàm lượng Asen từ 0,05 mg/l trở lên. Tuy nhiên, ở các khu vực phát hiện ô nhiễm, do hầu hết người dân đều không sử dụng trực tiếp nguồn nước bị ô nhiễm, nên tỷ lệ sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm cho các mục đích sinh hoạt là rất thấp.
 
- Năm là, biến đổi khí hậu gia tăng đang gây ra những tác động sâu sắc đến tài nguyên nước.
 
Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, có khả năng tác động mạnh lên tài nguyên nước và làm cho những vấn đề vốn rất nghiêm trọng nêu trên đây càng nghiêm trọng hơn, nhiều vấn đề về tài nguyên nước hiện chỉ tiềm ẩn ở dạng các nguy cơ thì có thể trở thành hiện thực nay mai. Theo dự báo, tác động của biến đổi khí hậu sẽ làm dòng chảy trong mùa khô ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (chỉ tính riêng lượng nước phát sinh trong vùng) suy giảm khoảng 4,8% vào năm 2020, 14,5% vào năm 2050 và khoảng 33,7% vào năm 2100. Những tác động nêu trên, cùng với tác động của biến đổi khí hậu và nhu cầu sử dụng nước của các quốc gia đều tăng lên mạnh mẽ trong những năm tới thì tình trạng thiếu nước, khan hiếm nước sẽ ngày càng gia tăng.
 
Mặc dù chưa được đánh giá một cách đầy đủ, nhưng có thể khẳng định biến đổi khí hậu đã và đang là một thách thức lớn nhất, hiện hữu đối với việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, phát triển bền vững, thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ của Việt Nam và đe doạ an ninh lương thực thế giới.
 
Để ứng phó hiệu quả với các thách thức trên, Việt Nam đề cao việc bảo vệ và quản lý nguồn nước và coi đây là một nội hàm quan trọng của "Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020" và đang triển khai "Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020".
 
Đồng thời, Việt Nam đã và đang nỗ lực đóng góp trên bình diện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, từ khuôn khổ song phương, tiểu vùng, liên khu vực và toàn cầu. Tích cực tham gia các cơ chế hợp tác ASEAN về quản lý nguồn nước, hợp tác APEC về ứng phó với thiên tai, đồng sáng kiến Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) thúc đẩy hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về quản lý nguồn nước giữa các quốc gia ven sông Mê Công và Đa-nuýp.


Quang cảnh buổi Tọa đàm
 
Thưa quý vị đại biểu!
 
Việt Nam và Hungary có những nét tương đồng trong khai thác, sử dụng nguồn nước do chúng ta đều nằm ở hạ du lưu vực sông lớn, phần lớn lượng nước được sản sinh bên ngoài lãnh thổ. Thông qua buổi Tọa đàm ngày hôm nay, tôi muốn trao đổi những thách thức về tài nguyên nước ở Việt Nam nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau về lĩnh vực rất quan trọng này giữa 2 nước. Tôi mong muốn rằng sự hiểu biết này sẽ thúc đẩy hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Hungary về tài nguyên nước trong thời gian tới. Qua đây, tôi đề nghị phía Hungary trên cơ sở Thỏa thuận đã được hai nước ký kết, tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong:
 
- Tăng cường năng lực về giám sát tài nguyên nước, bao gồm quan trắc giám sát nguồn nước, giám sát việc khai thác sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải vào nguồn nước;
 
- Hỗ trợ, trao đổi kinh nghiệm trong khai thác, sử dụng và chia sẻ nguồn nước liên quốc gia;
 
- Thúc đẩy hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về quản lý nguồn nước giữa các quốc gia ven sông Mê Công và Đa-nuýp trong đó có Việt Nam và Hungari;
 
- Hỗ trợ xây dựng hệ thống trạm giám sát xả nước thải vào nguồn nước lưu vực sông Đồng Nai;
 
- Tăng cường năng lực, trao đổi kinh nghiệm, thông tin khoa học, chuyên gia và sinh viên giữa Khoa Tài nguyên nước, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội với phía Hungari.
 
Xin chúc sức khỏe Ngài Tổng thống, đồng chí Phó Thủ tướng và các vị khách quý cùng quý vị đại biểu.
 
Chúc Buổi Tọa đàm thành công tốt đẹp!
 
Trân trọng cảm ơn! 
 

Tác giả bài viết: dwrm