Hà Nội: Kết quả quan trắc tài nguyên nước dưới đất tháng 5 năm 2021

Thành phố Hà Nội là một thành phố thuộc lưu vực sông Hồng – Thái Bình có diện tích tự nhiên là 3.359km2. Trong phạm vi thành phố hiện nay có 64 công trình quan trắc tài nguyên nước dưới đất.

Đối với tài nguyên nước dưới đất Thành phố Hà Nội gồm 3 tầng chứa nước chính: tầng chứa nước Holocen (qh), tầng chứa nước Pleistocen (qp) và tầng chứa nước Neogen (n). Theo báo cáo thuộc dự án “Biên hội - thành lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ 1:200.000 cho các tỉnh trên toàn quốc”, tổng tài nguyên nước dự báo cho các tầng chứa nước như sau: tầng chứa nước Holocen (qh) là 976.204m3/ngày, tầng chứa nước Pleistocen (qp) là 7.199.313 m3/ngày. Trong bản tin này phạm vi dự báo tài nguyên nước dưới đất trong thành phố sẽ thực hiện cho 3 tầng chứa nước chính.

Tầng chứa nước Holocene (qh)

Đối với lớp chứa nước Holocene thượng (qh2) 

Trên toàn khu vực phía Bắc sông Hồng

Trên toàn khu vực, mực nước trung bình tháng 4 có xu thế dâng so với tháng 3. Giá trị dâng cao nhất là 0,17m tại P. Thượng Thanh, Q. Long Biên (Q.121M1).

Mực nước trung bình tháng nông nhất là -3,34m tại xã Mai Lâm, huyện Đông Anh (Q.33) và sâu nhất là -11,07m tại P. Thượng Thanh, Q. Long Biên (Q.121M1). Mực nước trong tháng 5 và tháng 6 mực nước có xu thế dâng hạ không đáng kể.

Trên toàn khu vực phía Nam sông Hồng

Trên toàn khu vực, mực nước trung bình tháng 4 có xu thế dâng hạ không đáng kể so với tháng 3. Giá trị dâng cao nhất là 0,35m tại xã Hòa Phú, huyện Ứng Hòa (Q.176) và giá trị hạ thấp nhất là 0,29m tại xã Thọ An, huyện Đan Phượng (Q.56).

Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,89m tại xã Vân Côn, huyện Hoài Đức (Q.59a) và sâu nhất là -12,43m tại P. Tứ Liên, Q. Tây Hồ (Q.67). Trong tháng 5 và tháng 6 mực nước có xu thế dâng đầu tháng 4 và hạ dần vào tháng 5.  

Đối với lớp chứa nước Holocene hạ (qh1)

Trong phạm vi khu vực phía Bắc sông Hồng

Trong phạm vi khu vực phía Bắc sông Hồng chỉ có 1 công trình quan trắc tại TT. Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm (Q.120). Mực nước trung bình tháng 4 dâng 0,08m so với tháng 3. Trong tháng 5 và tháng 6 mực nước có xu thế hạ.

Trên phạm vi khu vực phía Nam sông Hồng

Trên toàn khu vực, mực nước trung bình tháng 4 có xu thế dâng hạ không đáng kể so với tháng 3. Giá trị dâng cao nhất là 0,46m tại P. Đồng Mai, Q. Hà Đông (Q.75M1) và giá trị hạ thấp nhất là 0,27m tại xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì (Q.66).

Mực nước trung bình tháng nông nhất là -1,82m tại xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì (Q.66) và sâu nhất là -9,89m tại P. Phú Lãm, Q. Hà Đông (Q.69). Trong tháng 5 và tháng 6 mực nước có xu thế dâng đầu tháng 5 và hạ dần vào tháng 6.

Tầng chứa nước Pleistocene (qp)

Lớp chứa nước Pleistocene thượng (qp2)

Trên toàn khu vực phía Bắc sông Hồng

Trên toàn khu vực, mực nước trung bình tháng 4 có xu thế hạ so với tháng 3. Giá trị hạ thấp nhất 0,2m tại TT. Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm (Q.120a).

Mực nước trung bình tháng nông nhất là -4,18m tại TT. Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm (Q.120a) và sâu nhất là -5,81m tại xã Vân Hà, huyện Đông Anh (Q.35). Trong tháng 5 và tháng 6 mực nước có xu thế hạ.

Trên toàn khu vực phía Nam sông Hồng

Trên toàn khu vực, mực nước trung bình tháng 4 có xu thế dâng so với tháng 3. Giá trị dâng cao nhất là 0,35m tại xã Hòa Phú, huyện Ứng Hòa (Q.176) và giá trị hạ thấp nhất là 0,20m tại P. Minh Khai, Q. Từ Liêm (Q.62).

Mực nước trung bình tháng nông nhất là -4,98m tại xã Hòa Phú, huyện Ứng Hòa (Q.176) và sâu nhất là -18,29m tại P. Yết Kiêu, Q. Hà Đông (Q.68a). Trong tháng 5 và tháng 6 mực nước có xu thế dâng đầu tháng 5 và hạ dần vào tháng 6.

Lớp chứa nước Pleistocene hạ (qp1)

Trên toàn khu vực phía Bắc sông Hồng

Trên toàn khu vực, mực nước trung bình tháng 4 có xu thế dâng so với tháng 3. Giá trị hạ thấp nhất 0,3m tại TT. Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm (Q.120b) .

Mực nước trung bình tháng nông nhất là -3,06m tại xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn (Q.15) và sâu nhất là -7,93m tại xã Hải Bối, huyện Đông Anh (Q.23a). Mực nước tại công trình Q.15 và Q.35a có xu thế dâng vào đầu tháng 5 và hạ dần vào tháng 6, công trình Q.23 mực nước có xu hướng dâng và Q.120b mực nước có xu hướng hạ.

Trên toàn khu vực phía Nam sông Hồng

Trên toàn khu vực, mực nước trung bình tháng 4 có xu thế hạ so với tháng 3. Giá trị hạ thấp nhất là 0,64m tại P. Minh Khai, Q. Từ Liêm (Q.62a) và giá trị dâng cao nhất là 0,57m tại xã Tốt Động, huyện Chương Mỹ (Q.77a).

Mực nước trung bình tháng nông nhất là -2,91m tại xã Tân Dân, huyện Phú Xuyên (Q.177a) và sâu nhất là -29,11m tại P. Dịch Vọng, Q. Cầu Giấy (Q.63aM). Mực nước khu vực nam sông Hồng có xu thế dâng hạ không đáng kể trong tháng 5 và tháng 6, riêng tại công trình Q.68b và Q.217 có xu hướng dâng đầu tháng 5 sau đó hạ dần.  

Tầng chứa nước Neogene (n)

Trên toàn khu vực, mực nước trung bình tháng 4 có xu thế hạ so với tháng 3. Giá trị dâng cao nhất là 0,10m tại xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì (Q.216) và giá trị hạ thấp nhất là 0,12m tại xã Tân Lập, huyện Đan Phượng (Q.213).

Mực nước trung bình tháng nông nhất là -4,00m tại TT. Phú Minh, huyện Phú Xuyên (Q.175b) và sâu nhất là -18,00m tại P. Trung Tự, Q. Đống Đa (Q.215). Trong tháng 5 và tháng 6 mực nước có xu thế dâng hạ không đáng kể, riêng tại công trình Q.175b và Q.213 mực nước có xu thế dâng đầu tháng 5 và hạ dần vào tháng 6.

CHI TIẾT KẾT QUẢ QUAN TRẮC TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT THÀNH PHỐ HÀ NỘI THÁNG 5 NĂM 2021 XIN MỜI XEM TẠI ĐÂY.
 
 
 
 

Tác giả bài viết: DWRM